Đồng bào Tây Nguyên sống hòa hợp với rừng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Từ xa xưa, đồng bào Tây Nguyên rất yêu núi rừng và sống gắn bó với đại ngàn hùng vĩ. Họ sống hòa hợp với rừng, trân quý rừng, kính trọng rừng.
Xưa kia, đồng bào Tây Nguyên đi vào rừng thì kiêng nói tục. Bà con quan niệm, đi săn nói tục sẽ không bắt được thú. Đi đào củ mài nói tục sẽ không gặp được củ to hoặc chỉ có những củ mài ở rất sâu, đào bới vất vả. Thậm chí để vào rừng săn bắt, người ta phải im lặng đến 3 ngày, gọi là “ngày không nói”. Họ coi rừng là thần, rừng có thần. Muốn chặt một gốc cổ thụ trong rừng thì cúng bái để xin, có vùng người ta phải đổ máu chó lên gốc cây để thần bỏ đi rồi mới hạ. Họ sợ thần đau, sợ thần giận quở phạt.
Về mưu sinh trồng trọt nương rẫy, người Tây Nguyên xưa chỉ mượn đất của rừng vừa đủ cái ăn, không phí phạm, không quá tham lam lãng phí tài nguyên, phá phách rừng cây vô độ. Khi phát một đám rẫy, dân làng chủ yếu chỉ dọn những cây nhỏ, đám thực bì, ít phạm vào những cây to. Chặt xong, khô thì đốt, không đào tận gốc trốc tận rễ theo kiểu khai thác trắng cơ giới tận diệt. Đất rẫy canh tác theo lối “phát-đốt-chọc-tỉa”, không bị cuốc vỡ, cấu tượng đất không thay đổi, hệ rễ cây vẫn tồn tại chằng chịt ở tầng sâu, giúp cho đất không bị rửa trôi, không bị thoái hóa. Những mùa sau, gốc cây, rễ cây sẽ phát mầm. Khi không canh tác nữa, trả lại đất cho rừng, mầm cây sẽ lớn lên tái tạo rừng mới, rừng non.
Đốt rừng cũng là một kỹ thuật, thậm chí là nghệ thuật, một động thái rất có kỷ luật. Những đám rẫy gần nhau sẽ đồng loạt đốt, cùng cử người canh khống chế đám lửa, sao cho không lan rộng, không gây nạn cháy rừng vượt tầm kiểm soát, tạo ra sự cháy theo ý đồ.
Trong sinh học, có những loại hạt cây rừng chỉ mọc mầm được khi có độ nóng làm phân hủy lớp kitin ở vỏ hạt. Đốt rẫy là một xúc tác giúp những hạt cây ấy dễ mọc mầm sớm (nếu phân hủy tự nhiên, lớp vỏ phải mất hàng chục năm phơi qua mưa nắng). Việc đốt rừng còn mang lại rất nhiều lợi ích cho quá trình canh tác. Đó là làm chuyển hóa nhanh lá khô cành mục, cỏ rác thành tro than cung cấp khoáng chất ka li, phốt pho... cho đất. Đốt rừng diệt sạch mầm cỏ dại và côn trùng gây hại gây bệnh cho thực vật.
Đời sống người Tây Nguyên gắn với rừng rẫy cả ngàn năm một cách bền vững trước khi tiếp cận với nền văn minh hiện đại. Tuy nhiên, ngày nay do nhiều nguyên nhân từ chiến tranh tàn phá, khai thác cơ giới, khai hoang cơ giới, canh tác nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn sản lượng nhiều... quỹ rừng đã trở nên cạn kiệt. Cùng với những giống cây trồng mới năng suất cao, những tiến bộ về thủy lợi... Nhà nước đã nghiêm cấm đốt, phá rừng làm nương rẫy nhằm bảo vệ rừng, tái tạo rừng như một động thái vá lành tự nhiên. Rừng đã khác, phương thức canh tác đã khác, người Tây Nguyên đã dần bước trên con đường thâm canh có đầu tư, có tác động nhiều vào đất. Điều bất ngờ là họ đã thích ứng khá nhanh, thay đổi khá nhanh phương thức canh tác cổ truyền ngàn năm tưởng bất di bất dịch để thích ứng với đời sống hiện đại.
Như vậy, người Tây Nguyên từ trong bản chất không phải là kẻ phá rừng, đốt rừng vô ý thức như cách nghĩ và cái nhìn ít biện chứng.
Đồng bào Tây Nguyên trình diễn cồng chiêng trước nhà rông của làng. Ảnh: N.L.V.Q
Đồng bào Tây Nguyên trình diễn cồng chiêng trước nhà rông của làng. Ảnh: N.L.V.Q
Việc canh tác dựa vào thiên nhiên một cách hài hòa là lối trồng trọt bền vững, hữu cơ trong lành. Người Tây Nguyên từ lâu đời cùng với việc phát nương làm rẫy là đã hình thành một phương pháp canh tác “luân canh bỏ hóa tự nhiên”. Là có chu kỳ thay đổi để cho đất nghỉ, cho rừng tái sinh, dinh dưỡng màu đất hồi phục. Một lối canh tác quay vòng, hoàn toàn khác với kiểu quảng canh tràn lan bóc lột tài nguyên đất để sản xuất nông sản hàng hóa ồ ạt. Cũng không phải lối du canh như người du mục (chăn nuôi gia súc đồng cỏ), nay đây mai đó. Việc canh tác của người Tây Nguyên là một chu kỳ vòng tròn, có sự quay trở lại trên từng mảnh đất. Như vậy, đó không phải lối du canh bất định, vô tổ chức.
Việc cư trú của người Tây Nguyên xưa luôn đảm bảo hai yếu tố cơ bản là cao ráo sạch sẽ và gần nguồn nước. Làng của người Tây Nguyên vì vậy đa phần thường quần tụ trên những lưng đồi quang đãng cạnh suối. Những ngôi nhà sàn xúm xít bên nhau. Hễ còn chỗ trống thì làm nhà, không có ranh giới rõ ràng giữa các ngôi nhà, các hộ. Họ chưa có khái niệm sở hữu những đám thổ cư vuông thành sắc cạnh cụ thể. Đó là sự cố kết cộng đồng thuận lợi cho sinh hoạt, tạo sự ấm cúng gần gũi. Làng như một cơ thể thống nhất hữu cơ.
Trong làng của người Tây Nguyên xưa thường trống trơ, nắng gió chói chang. Họ không làm vườn trong làng vì mấy nhẽ: ở chật không đủ đất, bị gia súc phá, sợ rậm rạp. Sự quang đãng của làng giúp phòng trừ muỗi mòng dịch bệnh, đề phòng thú dữ và kẻ địch. Cũng vì vậy, vườn của người Tây Nguyên luôn tọa lạc bên các con suối, gần rẫy rừng. Ở đó có đủ các loại rau như: cà đắng, lá mì, bầu bí... Thường ngày đi làm rẫy, người phụ nữ hái luôn nắm rau buổi chiều đưa về nhà nấu món ăn.
Hồi trước khi vào các làng cổ của người Tây Nguyên, chẳng thấy cây cối gì, đất chỉ để trống, nhiều người ngộ nhận họ ít chăm chỉ, không biết làm vườn, lãng phí đất, để trơ hoang mà không tiếc. Đó quả là sự hiểu nhầm nữa.
Cũng vì thế, trong đời sống tự hình thành một khái niệm người Tây Nguyên du canh du cư. Khái niệm này cũng không hoàn toàn đúng với nghĩa du cư của người chăn nuôi du mục lang bạt không quê hương xứ sở, ở trong các lều bạt tạm thời, khi đồng hết cỏ lại nhổ lều lùa gia súc đi sang vùng khác như cư dân Trung Á trước đây. Sự thật người Tây Nguyên chỉ du cư bất đắc dĩ khi gặp giặc dã, bị đại dịch, bị hỏa hoạn lớn cho là đất dữ hoặc gặp điềm không lành.
Cái từ định canh định cư vì vậy có lẽ chỉ đúng một nửa. Việc bố trí lại dân cư theo lối ở thưa ra, cấp cho mỗi hộ dân mấy ngàn mét vuông thổ cư để làm nhà làm vườn, gọi đúng là tái định cư hoặc giãn dân tách hộ. Chương trình này trên thực tế khá thành công, góp phần hình thành những vườn hộ gắn với nhà ở riêng biệt, tạo nguồn thu nhập khá lớn cho người dân bản địa như vườn cà phê, vườn cây ăn quả, vườn bời lời đỏ... 
Một điều nữa, thanh niên nam nữ Tây Nguyên sống tự do cởi mở gần gũi và rất tình cảm với nhau. Làng Tây Nguyên lại luôn có nhiều lễ hội thâu đêm giữa rừng khuya hoang lạnh, nam nữ cầm tay nhảy múa lưu luyến. Điều đó nhìn bề ngoài, nhiều người lầm tưởng họ dễ dãi phóng túng trong quan hệ luyến ái tính dục ở tuổi trẻ. Quả thực, tuy quan hệ nam nữ khác giới thân gần hòa nhã nhưng lại rất nghiêm khắc. Thân mật ân tình nhưng không hoang đàng bừa bãi. Mọi quan hệ thanh niên nam nữ hoàn toàn vui vẻ và trong sáng. Họ không dám vượt quá giới hạn theo quy định của luật tục vì rất sợ hậu quả từ thần linh cũng như làng phạt.
Đó là những nét đẹp của người Tây Nguyên ẩn chứa bên trong hình thái tự nhiên mộc mạc mà mới nhìn người ta rất dễ ngộ nhận.
NHÂN SƠN
 
 

Có thể bạn quan tâm

Từ “vùng đất chết” đến buôn làng trù phú

Từ “vùng đất chết” đến buôn làng trù phú

(GLO)- Trở lại “tọa độ lửa” mùa khô năm 1965-nơi diễn ra Chiến dịch Plei Me lịch sử, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng khi trước mắt là một vùng đất trù phú, yên bình. Những quả đồi từng bị bom đạn cày xới nay phủ kín sắc xanh của cà phê, cao su, của ruộng khoai, lúa rẫy vào vụ thu hoạch.

Xã An Lương tổ chức các chuyến xe lưu động cấp nước sinh hoạt cho người dân.

Xã An Lương tổ chức chuyến xe lưu động cấp nước sinh hoạt cho người dân

(GLO)- Cùng với hỗ trợ sửa chữa công trình bị hư hại, vệ sinh môi trường sau bão số 13 (Kalmaegi), những ngày này, xã An Lương (tỉnh Gia Lai) đã tổ chức các chuyến xe lưu động cung cấp nước sinh hoạt cho người dân nhằm khắc phục khó khăn trước mắt, đảm bảo điều kiện sinh hoạt.

Khởi sắc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Khởi sắc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở Gia Lai

(GLO)- Những năm qua, cấp ủy, chính quyền các địa phương trong tỉnh đã triển khai hiệu quả các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025. Nhờ đó, diện mạo nông thôn miền núi có nhiều khởi sắc, đời sống người dân được cải thiện đáng kể.

Eo Gió luôn là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài tỉnh. Ảnh: Đức Thụy

Du lịch gắn với sản phẩm OCOP: Hướng đi bền vững của Quy Nhơn Đông

(GLO)- Phường Quy Nhơn Đông (tỉnh Gia Lai) không chỉ nổi tiếng với Kỳ Co, Eo Gió, Hòn Khô… mà còn hấp dẫn du khách bởi nguồn hải sản phong phú. Phát triển du lịch gắn với sản phẩm OCOP đang trở thành hướng đi bền vững, giúp nâng tầm thương hiệu và mang lại sinh kế ổn định cho người dân.

 Một góc làng Canh Tiến thanh bình.

Khát vọng du lịch cộng đồng ở làng Canh Tiến

(GLO)-Nằm nép mình bên Hồ Núi Một thẳm xanh, làng Canh Tiến (xã Canh Vinh) được thiên nhiên ưu đãi với cảnh quan nguyên sơ, hùng vĩ, nên thơ. Người dân nơi đây đang ấp ủ khát vọng biến quê hương thành điểm đến du lịch cộng đồng, vừa gìn giữ bản sắc văn hóa, vừa tạo sinh kế bền vững.

Xã Gào có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp công nghệ cao và năng lượng tái tạo. Ảnh: Quang Tấn

Khởi sắc trên vùng đất 2 lần được phong anh hùng

(GLO)- Xã Gào (tỉnh Gia Lai) là địa phương 2 lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày nay, vùng đất này đã và đang đổi thay mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) và giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống.

Xã An Toàn trong diện mạo mới

Xã miền núi An Toàn khởi sắc

(GLO)- Là xã miền núi xa xôi, giao thông cách trở, trước đây, đời sống của người dân xã An Toàn (tỉnh Gia Lai) gặp rất nhiều khó khăn. Đến nay, vùng đất này đã khởi sắc nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng nỗ lực vươn lên của cán bộ, đảng viên và người dân địa phương.

Niềm vui từ những ngôi làng mới

Niềm vui từ những ngôi làng tái định cư

(GLO)- Từ những vùng thường xuyên bị ngập lụt, sạt lở chuyển đến nơi ở mới, với sự hỗ trợ của Nhà nước, người dân các làng tái định cư bắt đầu ổn định cuộc sống. Thật sự không ai bị bỏ lại phía sau và niềm vui hiện hữu trên từng nếp nhà là minh chứng cho chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước.

null