“Nghe kể chuyện làng mình”

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Tựa như một lời rì rầm, triển lãm “Nghe kể chuyện làng mình” của nữ họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu (Gia Lai) gây bất ngờ khi thoát ly những mô típ quen thuộc để kể về một đời sống quá đỗi dung dị và yên bình của những ngôi làng Tây Nguyên theo lối rất riêng.

Ngày 6-9, triển lãm của họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu sẽ khai mạc tại Bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh với 65 tác phẩm tranh sơn mài. Đây là triển lãm cá nhân thứ 2 của bà, cách triển lãm đầu tiên tròn 20 năm, ghi thêm một dấu ấn sáng tạo đáng nể của cây cọ nữ đã ngoài 60 tuổi. Không có rừng rực lễ hội, không có ám ảnh tâm thức, đây là cuộc trở về với ban sơ gần gụi, mà lạ thay lại khiến người xem thổn thức.

Họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu vẫn đắm đuối với tranh sơn mài dù đã ngoài 60 tuổi. Ảnh: Phương Duyên
Họa sĩ Hồ Thị Xuân Thu vẫn đắm đuối với tranh sơn mài dù đã ngoài 60 tuổi. Ảnh: Phương Duyên

Tuổi này, nhiều người đã tự cho phép mình ngơi nghỉ, nhưng nữ họa sĩ Xuân Thu lại luôn đặt ra cho mình những câu hỏi và giới hạn để phải vượt qua trong sáng tạo nghệ thuật. Nhu cầu làm mới mình, nhu cầu cống hiến cho công chúng những cảm xúc đẹp đẽ đã đặt ra sự thôi thúc tự thân.

Điều đầu tiên khiến mọi người bất ngờ chính là số lượng tranh sơn mài đồ sộ ra mắt tại triển lãm. Ngoài một số tác phẩm “dành dụm” từ trước đó, tranh sáng tác mới lên đến 38 bức, trong đó bức lớn nhất là “Sóng Tây Nguyên” có khổ 1,8x4,5m. Tất cả xác tín 2 thập kỷ lao động sáng tạo đến mức lao khổ với nhiều biến chuyển trong chủ đề của nữ họa sĩ: Từ đất và người Tây Nguyên chuyển sang đề tài Pleiku phố để rồi quay trở lại với Tây Nguyên một lần nữa bằng góc nhìn sâu đến tận cùng vào đời thường bình dị mà say đắm. Có vậy mới thấy được vẻ đẹp của những tấm váy áo thổ cẩm đang hong phơi để đón ngày hội làng (“Chờ tháng ba về”), mới yêu sắc nồng đượm hừng lên trong bếp than hồng (“Bếp nồng”), nét quyến rũ hoang dại của sơn nữ bên suối (“Suối tóc”) hay cuộc chuyện trò của những bà mẹ địu con sưởi nắng (“Câu chuyện mùa đông”)…

Tác phẩm “Đêm nằm nghe kể khan”.

Tác phẩm “Đêm nằm nghe kể khan”.

Để lưu lại từng chi tiết nhỏ như thế rồi rút lòng ra mà kể bằng màu vẽ, ta hiểu rằng người cầm cọ đã không biết bao lần dừng chân, lặng ngắm và yêu thương đời sống ấy. Một đời sống làng buôn gần gụi biết mấy với nếp nhà nhấp nhô trên đồi (“Lưng chừng đồi”, “Con đường màu xanh”), chó mèo gà lợn quấn quýt, bắp lúa thơm khói bếp (“Bà đã về”, “Đêm nằm nghe kể khan”…).

Trong đó, màu của ngàn xanh thường được ưu tiên, như chính sự hòa hợp của người Tây Nguyên với rừng từ trong bản thể. Sự dung dị đánh thức những xung động từ mơ hồ đến mãnh liệt trong cảm xúc của người xem. Như thể sau những chuyến đi dài ta lại được về ngồi dưới một bóng cây của quê nhà, cảm nhận nỗi bình yên và thổn thức. Như người già rồi sẽ hóa trẻ nhỏ, phía cuối con đường ta đi thì ra đều dẫn đến những mộng ước ban sơ.

Tác phẩm "Đất lành".

Tác phẩm "Đất lành".

Cũng nằm trong mạch kể ấy là tác phẩm “Đất lành”. Trải ra trên tấm vóc rộng là khung cảnh buôn làng bình yên với tốp phụ nữ gùi củi về nhà, xa xa có bóng y áo khó lẫn của một vị sư mà những ngày qua đang làm dậy lên trong lòng người những trăn trở về ý nghĩa sống. Nữ họa sĩ chuyện trò: “Cái nhiều người kiếm tìm thì thực ra người Tây Nguyên đã có sẵn rồi. Họ sống bình dị, không mưu cầu hay bon chen nhiều. Họ hạnh phúc vì biết hài lòng với cái mình có”.

Họa sĩ Xuân Thu tự sự, bà là người phụ nữ Huế tha phương đến Tây Nguyên và sinh sống đến nay đã gần 40 năm. Trong khoảng thời gian ấy, Tây Nguyên đã từ từ chạm, thấm vào trái tim bà một cách chân thực và tự nhiên, khiến bà nhìn ra cái đẹp ở khắp nơi, từ cuộc sống bình dị đến văn hóa, hồn cốt con người... “Vì vậy mà đến triển lãm này, tôi xem đây là câu chuyện của làng mình chứ không còn là chuyện làng Tây Nguyên trong mắt một cô gái Huế”-bà cho hay.

“Nghe kể chuyện làng mình” ảnh 4

Thật khó diễn tả, nhưng với tôi, người Tây Nguyên có sự tự do, mộc mạc, mạnh mẽ trong tự thân của họ. Đây cũng là giá trị tinh thần thực sự của vùng đất này. Vì vậy, nếu tranh của tôi có sự mộc mạc, tự do và mạnh mẽ, thì đó chính là giá trị chân thực từ đời sống Tây Nguyên mà tôi cảm nhận được, hoặc tôi đã là một phần của Tây Nguyên…”.

-Nữ họa sĩ HỒ THỊ XUÂN THU-

Thêm một điều khiến người xem ngỡ ngàng, đó là cách dùng màu rất lạ của họa sĩ trong loạt tranh này so với khuôn thước chất liệu truyền thống như son, vàng, then… Họa sĩ Lê Vấn (tỉnh Đắk Lắk), một họa sĩ cũng tài tình trong phác họa về Tây Nguyên đã lập tức nhận ra. Ông nhận xét: “Bảng màu trong một số tranh mới sáng tác của Xuân Thu có xu hướng thoát khỏi hài hòa đậm thường thấy của chất liệu này; sử dụng nhiều sắc độ của vàng quỳ, xám, trắng của bạc, trắng cẩn trứng…tạo ra hiệu quả lạ mắt, nhẹ nhàng, mang đến ấn tượng khác về Tây Nguyên.

Loạt tranh này cũng chuyển hóa tinh thần của tạo hình truyền thống Tây Nguyên nhưng ít lệ thuộc vào những mẫu thức, hoạ tiết thường thấy mà ở tầng sâu hơn là không gian sống. Đây có thể là kết quả của một hoạ sĩ nhiều năm sống ở Tây Nguyên. Những hiệu quả thẩm mỹ này đã bù đắp cho những phần có thể không phải là thế mạnh của Xuân Thu, ví dụ như nét nhấn, độ nhấn”.

Trong khi đó, tình cờ có mặt tại gallery của họa sĩ Xuân Thu những ngày này, điêu khắc gia Phạm Văn Hạng-một tên tuổi của mỹ thuật Việt Nam đã không khỏi “ngạc nhiên về sức vóc lao lực” của bà dành cho nghệ thuật. “Không chỉ ở chất liệu sơn mài với những tấm vóc lớn mà là bút pháp tinh luyện, tinh hoa hồn nhiên cảm tác sinh hoạt, mây nước, cử điệu mang hồn cốt của xứ sương mù, đồi núi, đất đỏ, cây xanh…”-điêu khắc gia Phạm Văn Hạng chia sẻ với không ít cảm phục.


Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng (thứ 2 từ trái sang) cảm phục sự lao lực, sức sáng tạo của nữ họa sĩ Xuân Thu với tranh sơn mài. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng (thứ 2 từ trái sang) cảm phục sự lao lực, sức sáng tạo của nữ họa sĩ Xuân Thu với tranh sơn mài. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Ai đó đã nói rằng, với người họa sĩ, vẽ ngoại cảnh cũng là vẽ nội tâm. Ngắm tranh của họa sĩ Xuân Thu, ta tưởng như được uống thứ rượu đã ủ chín kỹ, chỉ chờ đến lúc rót ra mời khách quý. Cảm giác ấm nồng ấy có lẽ là điều mà người cầm cọ nào cũng muốn kiếm tìm.

Có thể bạn quan tâm

Thân thương bột mì nhứt khuấy

Thân thương bột mì nhứt khuấy

(GLO)- Muộn chiều, người bạn quê Phù Cát (tỉnh Gia Lai) rủ tôi sang nhà chơi rồi hai đứa cùng nhau làm món bột mì nhứt khuấy. Với bạn, đây là thức món dân dã, thân thương của quê hương, gắn liền với tuổi thơ bao lớp người xứ Nẫu. 

Lớp dạy cổ tranh tại Quy Nhơn của chị Hòa Diễm thu hút nữ sinh, nhân viên văn phòng, người làm công việc tự do theo học. Ảnh: Ngọc Nhuận

Gieo tiếng đàn cổ tranh trên đất Võ

(GLO)- Từ mảnh đất Cà Mau xa xôi, chị Nguyễn Thị Hòa Diễm mang theo niềm đam mê đàn cổ tranh - một loại nhạc cụ truyền thống của Trung Quốc - về đất Võ. Tại đây, chị đã mở lớp dạy cổ tranh ở An Nhơn, Quy Nhơn, tạo nên không gian âm nhạc phương Đông đầy thanh tao giữa lòng miền đất Võ hào sảng.

Tím chiều thương nhớ

Tím chiều thương nhớ

(GLO)- Những bông hoa chiều tím mỏng manh luôn đem cho tôi sự an ủi dịu dàng và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Bao nhiêu lần ngồi trong chiều cùng sắc hoa là bấy nhiêu thương nhớ ùa về, đánh thức một vùng ký ức.

Hát bội được mùa vui

Hát bội được mùa vui

(GLO)- Từ đầu năm đến nay, các đoàn hát bội ở Gia Lai liên tục lưu diễn khắp nơi, làm bừng lên những sắc màu rực rỡ của nghệ thuật truyền thống trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân.

Nhà mồ-tác phẩm nghệ thuật bị “bỏ lại” cho gió núi Trường Sơn

Infographic Nhà mồ-tác phẩm nghệ thuật bị “bỏ lại” cho gió núi Trường Sơn

(GLO)- Nếu có dịp đi qua đường Trường Sơn Đông, du khách sẽ bắt gặp những mái nhà rực rỡ, nổi bật giữa màu xanh vời vợi của núi rừng Gia Lai. Đó chính là nhà mồ của người Bahnar. Những công trình kỳ công và đầy tính thẩm mỹ ấy được tạo ra chỉ để... bỏ lại cho gió núi Trường Sơn.

Vùng đất An Phú là một vùng quê an bình, và trù phú nằm cửa ngõ ngõ thành phố. Ảnh: Bi Ly

Chuyện người Bình Định lập làng trên cao nguyên

(GLO)- Từ miền biển Bình Định, những lưu dân “nước mặn” vượt núi lên cao nguyên tạo nên làng người Việt đầu tiên ở cửa ngõ Pleiku vào những năm 1920. Không chỉ xây chùa, dựng đình, họ còn gieo cốt cách hào sảng, hiếu học của "đất võ, trời văn" cho vùng quê An Phú.

null