Giờ đây, khi 2 tỉnh Gia Lai và Bình Định đã hợp nhất thành tỉnh Gia Lai, ký ức lễ hội lịch sử ấy không chỉ gợi lại một thời huy hoàng, mà còn đặt ra khát vọng phục dựng lễ hội vùng mang đậm bản sắc, đánh thức tinh thần liên kết văn hóa giữa đại ngàn và duyên hải.

Cuộc hội ngộ hiếm có giữa thượng và hạ đạo
Ông Phan Duy Tiên, nguyên Trưởng phòng Văn hóa-Thông tin thị xã An Khê (cũ), người trực tiếp tham gia hai kỳ lễ hội, nhớ lại: Đầu năm 1984, An Khê có ý tưởng tổ chức kỷ niệm 195 năm Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa. Sở Văn hóa-Thông tin tỉnh Nghĩa Bình (khi đó gồm 2 tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi) đã cử cán bộ giỏi chuyên môn lên hỗ trợ xây dựng kịch bản lễ hội.
Để tái hiện đội quân Tây Sơn thần tốc tiến ra Bắc tiêu diệt 29 vạn quân Thanh, Ban Chỉ đạo (BCĐ) phải lặn lội lên Đắk Lắk thuê voi đã được thuần hóa. Ngoài ra, bà con xã Phú An và các vùng lân cận cũng được huy động đưa ngựa về khu vực trường Đảng cũ tập luyện diễu hành và đua ngựa.

Trưởng phòng VH-TT lúc bấy giờ, ông Hà Quang Sang, vốn là diễn viên tuồng đã vận động các nghệ sĩ tuồng An Khê ngày đêm tập luyện vở “Quang Trung đại phá quân Thanh”. Ông cũng mời đoàn tuồng Bình Định với những nghệ sĩ gạo cội lên biểu diễn phục vụ người dân suốt 3 ngày diễn ra lễ hội, trùng dịp Tết Giáp Tý. Bà con được xem voi, đua ngựa, hát tuồng và thi đấu võ đài trong không khí tưng bừng kéo dài suốt 3 ngày đêm.
Sáng mùng 4 Tết, voi, ngựa cùng các đội cồng chiêng Bahnar trống giong cờ mở, tái hiện cảnh nghĩa quân Tây Sơn xuất quân ra trận. Từ An Khê, hàng trăm người dân hóa thân thành nông dân, binh sĩ, tướng lĩnh tháp tùng ba anh em nhà Tây Sơn xuôi về vùng đất Phú Phong (huyện Tây Sơn). Cả dàn nghệ sĩ tuồng, nghệ nhân cồng chiêng và người dân hai vùng nô nức cùng hòa vào không khí lễ hội.
“Người dân khắp nơi kéo đến sân vận động Phú Phong xem voi, xem ngựa và vui chơi có đến cả vạn người, đông đến nỗi làm Quốc lộ 19 bị kẹt xe. Ở miền Trung-Tây Nguyên thời đó, hiếm có lễ hội nào lớn hơn thế”, ông Tiên nhớ lại.

Từ dấu mốc 1984, An Khê duy trì tổ chức lễ kỷ niệm hằng năm. Những năm lẻ chỉ tổ chức phần lễ với nghi thức dâng hương, dâng hoa tưởng niệm đội quân Tây Sơn và các bậc tiền hiền, hậu hiền. Phần hội gồm múa lân, biểu diễn võ, chơi cờ tướng, cờ người tại An Khê Trường và chợ cũ; tối đến có võ đài phục vụ bà con vui Tết. Riêng lễ hội quy mô lớn chỉ tổ chức vào các năm chẵn theo chu kỳ 5 hoặc 10 năm.
Lần thứ hai ngành văn hóa hai tỉnh phối hợp tổ chức là vào năm 1989. Lúc đó, huyện An Khê đã chủ động đặt thêm tên “Lễ hội Tây Sơn Thượng đạo” bên dưới “Lễ kỷ niệm Chiến thắng Ngọc Hồi- Đống Đa”. Cách đặt tên này không chỉ tạo nên nét riêng để phân biệt với các lễ hội cùng chủ đề diễn ra ở nhiều địa phương khác trong cả nước, mà còn làm nổi bật vai trò lịch sử của An Khê-nơi cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ năm 1771.
Lễ hội năm 1989 do không thể thuê voi thật như lần trước, Ban tổ chức đã nhờ nghệ nhân làm voi giả bằng tre, phủ bạt, sơn màu tro cho giống da voi. Hàng chục nài ngựa mặc trang phục như đội quân Tây Sơn xưa diễu hành cùng đoàn ngựa chiến. Các diễn viên đội văn nghệ An Khê hóa thân thành Vua Quang Trung, hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, nữ tướng Bùi Thị Xuân. Ngoài ra, còn có 4 đội cồng chiêng Bahnar từ An Khê, Kbang và Kông Chro tham gia.

Sáng mùng 4 Tết Kỷ Tỵ (1989), đoàn quân Tây Sơn làm lễ dâng hương tại đình An Lũy, sau đó gặp đoàn tuồng Bình Định từ hạ đạo lên tại đèo An Khê. Hai bên phối hợp tái hiện lễ chém xà theo sử sách rồi cùng xuất quân về hạ đạo.
“Sống” lại hào khí Tây Sơn sau 40 năm
Sau hai kỳ lễ hội đáng nhớ, lễ kỷ niệm Chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa vẫn được duy trì hằng năm tại vùng cửa ngõ An Khê, nhưng sự phối hợp giữa Gia Lai và Bình Định từng là điểm nhấn kết nối văn hóa, dần phai nhạt theo thời gian. Giờ đây, khi Gia Lai và Bình Định đã hợp nhất, lễ hội Tây Sơn Thượng đạo nên chăng được khơi dậy, trở lại như một nhịp cầu kết nối quá khứ-hiện tại cho vùng đất mới?

Tiến sĩ Lưu Hồng Sơn, cán bộ Bảo tàng Pleiku, khẳng định: Không gian lễ hội Tây Sơn Thượng đạo tại An Khê có lợi thế lớn khi mang yếu tố “xuyên vùng”, kết nối các dân tộc anh em giữa Tây Sơn thượng và Tây Sơn hạ.
Nếu được phục dựng bài bản, lễ hội có thể trở thành sản phẩm văn hóa liên kết vùng, kết nối hệ di tích thông qua các hoạt động trình diễn cồng chiêng, bài chòi, tuồng, võ thuật cổ truyền, chợ phiên… Việc phục dựng không chỉ để thỏa mãn ký ức hay làm sống lại một giai đoạn lịch sử rực rỡ của địa phương, mà còn nhằm tái định hình nét bản sắc văn hóa chung của tỉnh mới-trong đó lễ hội Tây Sơn Thượng đạo là gạch nối “hai miền di sản”.
Trong tương lai gần, việc nâng tầm Tây Sơn Thượng đạo thành lễ hội cấp vùng, tiến tới công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là hoàn toàn khả thi nếu được đầu tư bài bản. Những kinh nghiệm quý từ hai kỳ lễ hội trước (năm 1984 và 1989) là nền móng vững chắc để phục dựng, biến lễ hội này thành chuỗi sản phẩm văn hóa-du lịch kết hợp yếu tố trải nghiệm và giáo dục truyền thống.

Ở góc nhìn doanh nghiệp du lịch, bà Hoàng Thị Thu Sen, Giám đốc Vietravel Bình Định, cho biết: Khu di tích Tây Sơn Thượng Đạo là điểm có thể triển khai sớm nhất tour rừng-biển liên kết giữa hai vùng. Không gian mở, cảnh quan đẹp, giá trị biểu tượng cao… là những yếu tố khiến Tây Sơn Thượng đạo gắn với lễ hội trở thành điểm nhấn trải nghiệm du lịch lẫn giáo dục thế hệ trẻ.
...Tiếng cồng chiêng, trống trận, voi rền, ngựa hí hoà cùng tiếng reo hò vạn người trên đèo An Khê hơn 40 năm trước dường như vẫn còn vọng lại đâu đây, như thanh âm của một mùa hội chưa từng khép. Giờ đây, khi ranh giới hành chính được nối lại sau gần nửa thế kỷ, thì kết nối văn hóa qua lễ hội sẽ là điểm tựa tinh thần cho hành trình phát triển bền vững của vùng đất mới.