Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định, trong suốt 35 năm qua, ngành Ngoại giao đã luôn đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công tác đối ngoại "phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ".
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Nguồn: BNG |
Giai đoạn 1986-1995: Phá thế bao vây cấm vận, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
Trong bài viết về công tác đối ngoại của Việt Nam 35 năm qua, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cho biết, những năm giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khi tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, Ðảng ta đã đánh giá lại cục diện thế giới để xác định đường lối, chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Tư duy của Ðảng ta có bước chuyển quan trọng tại Nghị quyết số 13/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa VI, ngày 20.5.1988) về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới.
Tiếp đó, chủ trương đối ngoại của Việt Nam được khẳng định tại Ðại hội VII (1991), theo đó Việt Nam muốn là bạn, là đối tác với các nước trên thế giới và mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại.
Thế giới quan mới về thời đại và cục diện thế giới đã mở đường, tạo điều kiện để Việt Nam phá thế bao vây cô lập, phát triển rộng rãi quan hệ đối ngoại. Việt Nam đã lần lượt bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, với Mỹ năm 1995, thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và các nước quan trọng trên thế giới và gia nhập ASEAN năm 1995.
Giai đoạn 1996-2010: Mở rộng quan hệ và hội nhập kinh tế quốc tế
Bước vào giữa thập niên 1990, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo ra tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. Các xu thế hòa bình, toàn cầu hóa, dân chủ hóa của thời đại ngày càng được củng cố và tăng cường.
Ðại hội VIII (1996) đã khẳng định tính đúng đắn đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Tư duy đối ngoại tiếp tục được đổi mới với quan điểm mới về đối tác-đối tượng, về hợp tác và đấu tranh trong Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (2003). Ðây là cơ sở để Việt Nam hóa giải điểm bất đồng, gia tăng điểm song trùng lợi ích trong quan hệ quốc tế.
Phó Thủ tướng điểm lại, hướng đột phá mới trong giai đoạn này là chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tại Ðại hội VIII (1996), Ðại hội IX (2001) và Ðại hội X (2006). Việt Nam đã tham gia Hiệp định Thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký Hiệp định Thương mại song phương với Mỹ năm 2001. Việt Nam gia nhập một loạt các cơ chế đa phương quan trọng như: Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) năm 1996, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007.
Việt Nam đã đăng cai các hội nghị cấp cao của Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp (1997), ASEAN (1998), ASEM (2005), APEC (2006) và là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc khóa 2008-2009.
Giai đoạn từ 2011 đến nay: Ðưa quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện
Ðại hội XI (2011) đã nâng tầm từ hội nhập kinh tế sang "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế" một cách toàn diện. Ðại hội XII (2016) có quyết sách chính trị quan trọng về tiếp tục mở rộng phạm vi, lĩnh vực và mức độ hội nhập. Các nội dung này đã được cụ thể hóa và kế hoạch hóa trong Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn 2030.
Tư duy đối ngoại đa phương có bước chuyển quan trọng với Chỉ thị 25-CT/TW của Ban Bí thư năm 2018 về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, chuyển mạnh từ "tham dự" sang "chủ động tham gia" và phát huy vai trò "nòng cốt", dẫn dắt của Việt Nam...
Kết quả là chúng ta đã xây dựng được mạng lưới 30 đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, trong đó có tất cả các nước lớn, 17/20 thành viên G-20, toàn bộ các nước ASEAN. Việt Nam chủ động đàm phán nhiều FTA, trong đó có hai FTA thế hệ mới là Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và ký Hiệp định RCEP. Việt Nam đã đảm nhiệm vai trò chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc 2020 - 2021. Kết quả hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ... được thúc đẩy mạnh mẽ và có những kết quả thực sự tích cực.
Các thành tựu và bài học đối ngoại
Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: "Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay", Phó Thủ tướng cho biết, trước hết, công tác đối ngoại đã xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác.
Thứ hai, trong tâm thế và khát vọng phát triển, vươn lên của dân tộc, đối ngoại Việt Nam đã sáng tạo, linh hoạt, tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi, thu hút nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước.
Thứ ba, công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc, góp phần "giữ nước sớm, từ xa, từ khi nước còn chưa nguy".
Thứ tư, công tác đối ngoại, nhất là đối ngoại đa phương, đã góp phần nâng cao vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Các thành tựu trên có được nhờ đường lối, chủ trương đối ngoại đúng đắn của Ðảng qua các thời kỳ, trên cơ sở đánh giá đúng thời cuộc và sự tiếp thu, đúc rút các bài học của đối ngoại Việt Nam.
Trước hết, đó là kiên định và phát huy cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Tiếp theo là bài học kinh nghiệm về đối ngoại luôn xuất phát từ đối nội, phục vụ đối nội và dựa vào đối nội, là tầm quan trọng của sự phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng đối ngoại bao gồm đối ngoại Ðảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa Ðối ngoại-Quốc phòng-An ninh...
Hiệu quả hoạt động đối ngoại dựa rất lớn vào tiềm lực và uy tín của đất nước mà sự đánh giá rất cao của quốc tế đối với nỗ lực chống dịch COVID-19 của Việt Nam là ví dụ điển hình. Bên cạnh đó, chúng ta có bài học quan trọng về chuyển hóa thế thành lực, tranh thủ mạng lưới quan hệ đối ngoại, đòn bẩy chính trị, vị thế của đất nước để đạt được những kết quả vượt ra khỏi giới hạn sức mạnh cứng của quốc gia.
Công tác đối ngoại giai đoạn tới
Phó Thủ tướng cho biết, chúng ta sẽ đặt ra các mục tiêu phát triển dài hạn, đầy tham vọng tới năm 2030 và 2045 nhưng trong bối cảnh quốc tế phức tạp nhất từ trước tới nay. Do đó, sứ mệnh của đối ngoại thời gian tới là hết sức nặng nề với nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là toàn tâm, toàn lực hiện thực hóa khát vọng phát triển, xây dựng Việt Nam trở thành đất nước hạnh phúc, phồn vinh.
Dự thảo Báo cáo chính trị tại Ðại hội XIII đã thể hiện tầm quan trọng, vai trò tiên phong của đối ngoại, mặt trận có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng quan trọng để thực hiện nhiệm vụ là tiếp tục "xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại" ngày càng vững chắc và sự triển khai đồng bộ, toàn diện của đối ngoại Ðảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Theo VÂN ANH (LĐO)