Đối với nông sản Gia Lai, đặc biệt là khu vực phía Tây, tiêu chuẩn và minh bạch đang trở thành yêu cầu quan trọng trong hành trình xuất khẩu bền vững.
Với đặc trưng nông nghiệp trên vùng đất đỏ bazan, nông nghiệp phía Tây Gia Lai sở hữu nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế cao (cà phê, hồ tiêu, mắc ca, điều, mật ong, trái cây…). Đặc biệt, nhiều sản phẩm đã định vị thương hiệu, vươn tầm quốc gia và quốc tế, như: L’amant Café - Thương hiệu Quốc gia; các sản phẩm OCOP 5 sao như Mật ong Phương Di, tiêu hữu cơ Lệ Chí, cà phê Đak Yang Honey, Đak Yang Fine Robusta… Hệ sinh thái sản phẩm OCOP từ 3 - 4 sao cũng góp phần đặt cơ sở cho chiến lược nâng cao giá trị nông sản, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Khắt khe nhưng ổn định và giàu tiềm năng
Đáng chú ý, nhiều DN lớn tại Gia Lai đã đầu tư bài bản từ vùng nguyên liệu hữu cơ đến nhà máy chế biến hiện đại. Điển hình, Công ty TNHH Vĩnh Hiệp (phường An Phú) với thương hiệu L’amant Café hiện đã xuất khẩu đến nhiều thị trường lớn như Mỹ, Canada, Hàn Quốc, Trung Quốc…

Bà Trần Thị Lan Anh, Phó Giám đốc Công ty TNHH Vĩnh Hiệp, chia sẻ: “Sau các bước khảo sát tiền trạm, Vĩnh Hiệp nhận thấy cơ hội lớn để tiếp tục đưa hàng thành phẩm chinh phục thị trường Nhật Bản. Người tiêu dùng Nhật Bản mua hàng với niềm tin, trách nhiệm và câu chuyện gắn với sản phẩm. DN muốn hiện diện lâu dài ở thị trường này buộc phải chứng minh được tính minh bạch của sản phẩm từ vùng nguyên liệu đến sản xuất, bảo vệ môi trường, trách nhiệm cộng đồng và truy xuất nguồn gốc. Đây là tiêu chuẩn cơ bản, không thể thương lượng điều chỉnh”.
Tại sự kiện kết nối DN Nhật Bản với tỉnh Gia Lai hồi tháng 6.2025, ông Jiro Nagura, Cố vấn Hiệp hội Siêu thị Quốc gia Nhật Bản, chỉ rõ: 3 yếu tố cốt lõi quyết định hành vi tiêu dùng tại Nhật Bản, đó là an toàn thực phẩm, bao bì nhãn mác rõ ràng và thông tin minh bạch về nguồn gốc. Người tiêu dùng Nhật rất quan tâm đến các chi tiết nhỏ trong quy trình sản xuất, giấy chứng nhận tiêu chuẩn và đặc biệt bị thu hút bởi những sản phẩm mang đậm bản sắc vùng miền. Một sản phẩm nông nghiệp muốn có chỗ đứng tại Nhật không phải chỉ dừng lại ở việc đáp ứng tiêu chuẩn hữu cơ - vốn đã rất khắt khe, mà còn là xây dựng thương hiệu, bản sắc cho từng sản phẩm.
Nhận định về triển vọng hợp tác, Phó Giám đốc Sở Công Thương Nguyễn Duy Lộc cho biết: Trong tháng 6.2025, Sở đã tổ chức kết nối để các DN đối tác Nhật Bản trực tiếp khảo sát tại một số cơ sở sản xuất chế biến nông sản của tỉnh như hạt điều, mật ong, cà phê Vĩnh Hiệp, BaKa, Phương Di, Hải Bình… Qua đánh giá, phía bạn ghi nhận sự chuyển mình tích cực từ sản xuất thô sang chế biến sâu, gia tăng giá trị và đáp ứng yêu cầu thành phẩm cho người tiêu dùng Nhật”.
“Thâm nhập thị trường Nhật Bản không chỉ là mục tiêu, mà còn là “thước đo” nâng tầm giá trị cho nông sản Gia Lai, là cánh cửa mở rộng đường ra thế giới. Trong định hướng chiến lược, tỉnh xác định đây là thị trường trọng điểm, có tính ổn định cao, phù hợp với các sản phẩm thế mạnh tỉnh ta. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm, các nhà sản xuất cần phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn quốc tế và minh bạch toàn bộ chuỗi cung ứng từ vùng trồng đến chế biến, đóng gói và truy xuất nguồn gốc để đáp ứng các yêu cầu từ thị trường này”, ông Lộc nói thêm.
Cần chiến lược dài hạn, đồng bộ
Hiện nay, sản phẩm cà phê hữu cơ của Vĩnh Hiệp đã xuất đi Nhật Bản; sản phẩm Mật ong Phương Di, Cà phê Đăk Yang, Tiêu hữu cơ Lệ Chí cũng đã đưa hàng mẫu trưng bày tại một hệ thống phân phối của Nhật. Theo tính toán của các DN, xuất khẩu dưới dạng thành phẩm cuối cùng thì giá trị sản phẩm cao hơn rất nhiều so với xuất dạng nguyên liệu, đồng thời nếu sản phẩm đứng vững ở Nhật có thể nâng giá trị thương hiệu cho nông sản Gia Lai.
Bên cạnh các DN lớn, nhiều HTX, cơ sở sản xuất nhỏ tại Gia Lai cũng đang dần tiếp cận thị trường Nhật Bản, với tâm thế chủ động và nghiêm túc trong việc chuẩn hóa quy trình.

Ông Nguyễn Tấn Công, Giám đốc HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Nam Yang (xã Kon Gang) cho biết, hiện HTX đang chuẩn bị nguồn nguyên liệu từ 200 - 300 tấn hồ tiêu để có thể xuất khẩu đơn hàng đầu tiên sang Nhật vào cuối năm. “Trong quá trình tiếp cận đối tác, chúng tôi quảng bá sản phẩm hướng tới giá trị văn hóa địa phương. Đó là mối liên kết sản xuất giữa giống bản địa, canh tác hữu cơ và xây dựng thương hiệu từ một vùng đất gắn bó với cây tiêu, hạt cà phê nay đã vươn ra thị trường bằng những câu chuyện nhân văn và giá trị bền vững”, ông Công bày tỏ.
Tương tự, HTX Mật ong Phương Di Bee (xã Gào) cũng đang tích cực đầu tư để đáp ứng các tiêu chí của phía Nhật. Bà Trần Thị Hoàng Anh, Giám đốc HTX, cho hay: “Sau khi trực tiếp kiểm tra nhà xưởng sản xuất, đối tác Nhật Bản yêu cầu sản phẩm xuất sang thị trường này phải là thành phẩm cuối cùng, có mẫu mã đa dạng và phù hợp với thói quen tiêu dùng của người Nhật. Vì vậy, chúng tôi đã đầu tư máy móc hiện đại như dây chuyền đóng chai tự động, máy tách thủy phần chân không (thiết bị dùng để giảm độ ẩm trong mật ong bằng cách tạo ra môi trường chân không, giúp nước bay hơi ở nhiệt độ thấp mà không làm ảnh hưởng đến chất lượng của mật ong), đồng thời thiết kế mẫu mã riêng cho phân khúc nhà hàng, khách sạn”.
Dù đã có nhiều tín hiệu tích cực, nhưng để xây dựng năng lực xuất khẩu bền vững vào thị trường Nhật Bản nói riêng và quốc tế nói chung, Gia Lai cần một chiến lược tổng thể hơn.
Ông Thái Như Hiệp, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam, cho rằng, hiện một số DN và HTX tại tỉnh Gia Lai đã nỗ lực đạt tiêu chuẩn hữu cơ quốc tế, nhưng nhìn tổng thể, vùng nguyên liệu chuẩn hóa vẫn chưa đủ để phục vụ xuất khẩu bền vững. Vì vậy, về lâu dài, rất cần một chiến lược tổng thể để hình thành một hệ sinh thái sản xuất hữu cơ hoàn chỉnh, từ quy hoạch vùng trồng, đào tạo nhân lực, chuẩn hóa kỹ thuật canh tác, xây dựng chuỗi giá trị đến chứng nhận sản phẩm và truy xuất nguồn gốc. Cùng với đó là chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ máy móc thiết bị và tiếp cận công nghệ cao để nâng cao năng lực cạnh tranh.