(GLO)- Tối 26-1-1973, Chỉ huy Trung đoàn 48 đang tập trung tổ chức cho Tiểu đoàn 1 chiếm lĩnh trận địa tiến công căn cứ 30 bên đường 19 Tây thì nhận được chỉ thị của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 320: Tổ chức lực lượng cơ động gấp đến khu vực Phú Mỹ trên đường 14 (cách thị xã Pleiku 20 km về phía Nam) phối hợp cùng Tiểu đoàn 12 (Tỉnh đội Gia Lai) đánh địch, chiếm giữ khu vực này trước giờ ngừng bắn có hiệu lực theo Hiệp định Paris!
Chỉ huy Trung đoàn 48 đã thống nhất sử dụng Tiểu đoàn 2 và Đại đội 17 công binh từng tác chiến ở đây thực hiện nhiệm vụ này; đồng thời phân công Trung đoàn phó Nguyễn Hữu Ưng và Phó Chính ủy Lý Sỹ Điềm cùng một số cán bộ cơ quan tổ chức Sở chỉ huy nhẹ để chỉ huy thực hiện nhiệm vụ.
Ảnh minh họa |
Ngay trong đêm, bộ phận chỉ huy cùng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2 và Đại đội 17 lập tức hành quân. Mặc cho đêm tối, đường rừng, đèo dốc, các chiến sĩ vừa đi vừa chạy, đến sáng hôm sau thì tới nơi. Do đã thông thuộc địa hình khu vực và có sự giúp sức của lực lượng tại chỗ nên vừa đến nơi, Sở chỉ huy cùng các đơn vị đã nhanh chóng nắm được tình hình địch, thống nhất phương án, tổ chức hiệp đồng, xây dựng trận địa chiến đấu.
Được sự hỗ trợ của du kích và đồng bào 2 xã E14, E15 (huyện 5), từ chiều 27 đến sáng 28-1, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 12 và Đại đội 17 đã tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch, chiếm giữ được hơn 5 km đường 14 từ ngã ba Phú Mỹ đến Bắc Mỹ Thạch trước thời điểm ngừng bắn có hiệu lực theo Hiệp định Paris. Trong khi đó, trên đường 19 Tây, trong ngày 27-1, Tiểu đoàn 1 cùng các lực lượng tăng cường đã diệt gọn Tiểu đoàn 23 (thiếu) cùng 3 xe tăng, một trận địa pháo 105 mm… ở căn cứ 30, tiến xuống lập tuyến chốt chặn ở làng Yít sát đồn Tầm. Thế là, chỉ trong vòng 1 ngày 2 đêm, Trung đoàn 48 (thiếu Tiểu đoàn 3) cùng với Tiểu đoàn 12 (Tỉnh đội Gia Lai), du kích và đồng bào huyện 5 đã giải phóng một vùng rộng lớn, nối thông hành lang các huyện phía Tây và Đông đường 14 của tỉnh.
Ngay sau đó, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Trần Văn Thân và Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 12 Huỳnh Bá Sỹ được lệnh khẩn trương tổ chức bộ đội và nhân dân dựng cổng chào, cột cờ, đồng thời sẵn sàng trừng trị các hành động phá hoại Hiệp định Paris của địch. Vậy là ngay sau giờ ngừng bắn có hiệu lực, cùng với việc củng cố lại trận địa, thống nhất phương án và hiệp đồng tác chiến, ở hai đầu đoạn đường 14 vừa làm chủ, cán bộ, chiến sĩ của 2 tiểu đoàn đã cùng du kích và đồng bào địa phương nhanh chóng dựng xong 2 cổng chào và cột cờ. Bọn địch vô cùng ngạc nhiên và tức tối trước sự xuất hiện của 2 cổng chào cùng 2 lá cờ khổ lớn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngạo nghễ tung bay ở khu vực Phú Mỹ và Bắc Mỹ Thạch trên đường 14, khẳng định chủ quyền của cách mạng; còn bộ đội và nhân dân ta thì tự hào và sung sướng trước thành quả đã giành được.
Bị mất một địa bàn quan trọng trên trục đường giao thông huyết mạch giữa Pleiku và Buôn Ma Thuột sát nách Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 ngụy ở Pleiku ngay trước giờ ngừng bắn nên địch rất tức tối. Vì vậy, chỉ 1 ngày sau, bất chấp lệnh ngừng bắn và Tết cổ truyền dân tộc, địch đã tổ chức cho Chi đoàn 2 thuộc Thiết đoàn 21 (Lữ đoàn 2 Kỵ binh) cùng 2 đại đội bảo an, với sự yểm trợ đắc lực của pháo binh và máy bay các loại, từ ngã ba Mỹ Thạch lên giải tỏa nhưng đã bị các chiến sĩ Tiểu đoàn 12 (Tỉnh đội Gia Lai), có sự hợp sức của Tiểu đoàn 2 và Đại đội 17 công binh (Trung đoàn 48) trừng trị đích đáng. Qua 1 ngày chiến đấu, bộ đội ta đã diệt gần 70 tên địch, bắn cháy và phá hủy 6 xe quân sự (có 2 xe tăng M41, 3 xe M113).
Cay cú trước thất bại nặng nề, sáng 2-2-1973 (mùng 4 Tết Nguyên đán), Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 ngụy lại bất chấp Hiệp định Paris đã có hiệu lực, ra lệnh cho Chi đoàn 3 (Thiết đoàn 17) gồm 6 xe tăng M48 (mới xuất hiện ở chiến trường Tây Nguyên), 8 xe bọc thép M113 cùng 1 tiểu đoàn bảo an từ ngã ba Hàm Rồng kéo xuống quyết giành lại phần đất đã bị mất trên đường 14. Khoảng hơn 7 giờ, 1 máy bay trinh sát L19 của địch từ hướng Bắc bay đến lượn vòng nhiều lượt nhòm ngó dọc khu vực kiểm soát của ta trên đường 14. Nửa tiếng sau, nó quay lại lượn xoáy quanh khu vực Phú Mỹ, rồi lao xuống phóng pháo khói vào sát cột cờ của ta. Ít phút sau, 3 chiếc AD6 bay đến lần lượt bổ nhào cắt bom xuống khu vực này.
Các chiến sĩ phân đội 12,7 mm của ta lập tức nổ súng. Bị đánh trả quyết liệt, máy bay địch phải cắt bom từ trên cao nên không chính xác, lá cờ giải phóng vẫn tung bay như thách thức kẻ thù. Địch tiếp tục cho các trận địa pháo ở Thanh An, Hàm Rồng, Phú Nhơn thay nhau bắn vào suốt dải trận địa chốt chặn của Tiểu đoàn 2. Đúng 10 giờ 15 phút, sau loạt pháo cấp tập, địch cho 4 xe tăng M48, 3 xe bọc thép M113 cùng 2 đại đội bộ binh hùng hổ tiến vào. Từ vị trí chỉ huy được ngụy trang kín đáo, Đại đội trưởng Đại đội 5 Đỗ Ngọc Toản bình tĩnh theo dõi mọi hành động của địch. Khi chiếc xe tăng đi đầu chỉ còn cách hầm của anh chừng 100 m thì xạ thủ B41 Nguyễn Văn Hải nằm sát bên giương nòng súng lên. “Hãy chờ thêm chút nữa!”-Toản nắm tay Hải nói nhỏ. “Lúc nào mình ra lệnh cậu mới được bắn”. 80 m, rồi 50 m… chiếc xe tăng đi đầu chuẩn bị tiến vào vị trí tổ chốt tiền tiêu thì tiếng hô bắn của Đại đội trưởng vang lên. Hải siết cò. Sau tiếng nổ dữ dội, chiếc xe tăng bị vầng lửa da cam chụp lấy, bốc cháy. Ở bên phải, Trung đội trưởng Trung đội 1 Lê Bá Dong dùng súng M41 bắn cháy chiếc thứ 2. Những chiếc sau hốt hoảng lùi lại. Bọn bộ binh địch như rắn mất đầu không biết bấu víu vào đâu.
Đại đội trưởng Toản liền ra lệnh cho hỏa lực tập trung bắn vào đội hình địch; đồng thời lệnh cho Trung đội trưởng Lê Huy Bằng và Tiểu đội trưởng Trần Văn Đoàn dẫn 2 tổ xuất kích đánh vào hai bên sườn đội hình địch. Quân địch lớp chết lớp bị thương, số còn lại bỏ chạy tán loạn. Địch liền cho 2 xe tăng M48 và 3 xe M113 dẫn một mũi bộ binh khác vòng sang phía Tây đường thọc vào sườn Đại đội 5 thì lại lọt vào trận địa chốt của Đại đội 6. Xạ thủ B40 Nguyễn Đình Giáo chờ cho chiếc xe tăng đi đầu vào thật gần mới nổ súng. Nó trúng đạn chồm lên rồi khựng lại bốc cháy dữ dội, nòng pháo của xe tăng địch chỉ cách hầm Giáo chưa đầy 20 m. Chiếc xe tăng sau vòng sang phải tiến lên liền bị xạ thủ B40 Nguyễn Văn Thuân tiêu diệt. Những xe sau vội quay đầu tháo chạy, nhưng 1 chiếc M113 vấp mìn của Đại đội 17 công binh nổ tung. Chớp thời cơ, từ 2 hướng, các chiến sĩ của Đại đội 5 và Đại đội 6 lao ra khỏi hầm truy kích diệt địch, bắt tù binh, thu vũ khí…
Thế là với tinh thần cảnh giác và ý chí quyết tâm cao, trong ngày thứ 6 ngừng bắn có hiệu lực theo Hiệp định Paris, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2 và Đại đội 17 công binh (Trung đoàn 48) đã bắn cháy và phá hủy 5 xe tăng, thiết giáp địch (có 4 xe tăng M48), bắt nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, giữ vững vùng giải phóng. Đây là chiến công mà cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị thiết thực kỷ niệm lần thứ 43 Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Quý Sửu.
Hùng Tấn