TỈNH ỦY - HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN - ỦY BAN NHÂN DÂN - ỦY BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TỈNH GIA LAI VÀ GIA ĐÌNH VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC BÁO TIN
Đồng chí Ksor Ní (Ama H’Nhan).
Sinh ngày 10 tháng 02 năm l925.
Quê quán: Bôn Tham, xã Ia Trok, huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai.
Trú quán tại số nhà 22B, đường Phan Đình Phùng, phường Tây Sơn, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
Cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy - nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum.
Huân chương Độc lập hạng nhất.
Huân chương Kháng chiến hạng nhất, hạng nhì.
Huân chương Giải phóng hạng nhất, hạng Nhì.
Huân chương Quyết thắng hạng nhất.
Huy hiệu 50, 60, 65, 70 năm tuổi Đảng, nhiều huân, huy chương và các hình thức khen thưởng khác.
Sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được các cơ quan, địa phương, gia đình và các y-bác sĩ tận tình chăm sóc, cứu chữa nhưng do bệnh nặng, tuổi cao sức yếu đồng chí đã từ trần vào lúc 01 giờ 28 phút, ngày 15 tháng 02 năm 2019 (nhằm ngày 11 tháng Giêng năm Kỷ Hợi), hưởng thọ 95 tuổi.
Lễ viếng: Lúc 10 giờ 00 phút, ngày 15 tháng 02 năm 2019 (nhằm ngày 11 tháng Giêng năm Kỷ Hợi).
Lễ truy điệu: Lúc 06 giờ 45 phút, ngày 17 tháng 02 năm 2019 (nhằm ngày 13 tháng Giêng năm Kỷ Hợi).
An táng cùng ngày tại Nghĩa trang thành phố Pleiku (cũ).
TÓM TẮT TIỂU SỬ
Đồng chí Ksor Ní (Ama H’Nhan)-nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai (4/1974 - 10/1975), nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum
Đồng chí KSOR NÍ, tên thường gọi: Ama H’Nhan.
Sinh ngày 10 tháng 02 năm 1925.
Quê quán: Bôn Tham, xã Ia Trok, huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai.
Trú quán tại số nhà 22B, đường Phan Đình Phùng, phường Tây Sơn, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.
Từ tháng 7/1945, đồng chí tham gia phong trào thanh niên, học sinh, viên chức thị xã Pleiku, tập hợp lực lượng để tham gia giành chính quyền. Sau đó, đồng chí về tổ chức phong trào thanh niên giành chính quyền ở thị trấn Cheo Reo và tiến hành giành chính quyền toàn huyện, lập nên chính quyền cách mạng từ huyện đến các xã, thôn.
Tháng 8/1945, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ủy ban nhân dân cách mạng huyện Cheo Reo, phụ trách công tác tài chính huyện. Tháng 4/1946, đồng chí trúng cử Hội đồng nhân dân tỉnh Gia Lai (khóa I). Từ tháng 5/1946 đến tháng 11/1946, làm cán bộ văn hóa giáo dục Nha Dân tộc Trung ương Hà Nội. Ngày 15/12/1946, đồng chí vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đồng chí làm Trưởng phòng Vận động quốc dân thiểu số huyện Cheo Reo.
Từ năm 1947 đến năm 1949, đồng chí lần lượt giữ các chức vụ, như: Tổ trưởng Đảng thuộc Chi bộ cơ quan Ban vận động quốc dân thiểu số tỉnh Đăk Lăk đóng ở Phú Yên; Phó Chủ tịch, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính huyện Cheo Reo, Bí thư Ban cán sự đảng huyện Cheo Reo. Trong giai đoạn này, đồng chí được cử đi học lớp bồi dưỡng chính trị ngắn ngày cho cán bộ trung sơ cấp một tháng do Liên Khu ủy V mở.
Tháng 6/1949, đồng chí là Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Gia Lai, Phó Chủ tịch Ủy Ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Gia Lai. Tháng 3/1950, khi sáp nhập hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum thành tỉnh Gia Kon, đồng chí là Ủy viên Ban Cán sự Đảng tỉnh Gia Kon phụ trách chính quyền. Năm 1953, đồng chí là Phó Ban chính trị E120, Ủy viên Ban cán sự đảng Gia Kon, phân công làm Bí thư huyện Đak Bớt, kiêm Chính trị viên Huyện đội.
Tháng 7/1954 đến tháng 01/1955, đồng chí là Phó Trưởng đoàn Ban Liên hiệp Quân sự đình chiến đóng tại Quy Nhơn - Bình Định.
Tháng 3/1955, đồng chí tập kết ra miền Bắc, sau đó làm việc trong Ban Liên hiệp đình chiến Trung ương, Trưởng phòng giáo vụ Trường cán bộ dân tộc Trung ương tại Gia Lâm - Hà Nội. Từ năm 1957 đến năm 1959, đồng chí tiếp tục được cử đi học lớp lý luận cơ bản cho cán bộ trung cao tại Phân hiệu I Trường Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, đồng chí giữ chức Bí thư, Hiệu trưởng Trường Dân tộc Trung ương ở Mễ Trì, Hà Nội. Cuối năm 1964, đồng chí về lại miền Nam công tác.
Từ tháng 3/1965, đồng chí làm Ủy viên Ban Miền núi Liên khu V, đến tháng 4/1966, làm Phó Giám đốc Trường Đảng khu cho cán bộ dân tộc trong Liên khu V. Năm 1967, đồng chí là Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, Trưởng Ban Dân vận, Trưởng Ban Đấu tranh chính trị, Trưởng Ban Binh vận, rồi Trưởng Ban Tuyên huấn tỉnh. Đến năm 1968, đồng chí làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cách mạng tỉnh Gia Lai kiêm Bí thư Đảng đoàn chính quyền phụ trách chính quyền, Chỉ huy trưởng Tiền phương chiến dịch Xuân 1968 tỉnh, Ban Thi đua, Trưởng Ban Tuyên huấn, Ban Kinh Tài Đảng tỉnh.
Năm 1973, đồng chí là Ủy viên Ban cán sự kiêm phó đoàn Ban Liên hiệp bốn bên và hai bên khu vực 3 Pleiku. Năm 1974, đồng chí về lại tỉnh với cương vị là Phó Bí thư Tỉnh ủy, sau đó là Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai. Tháng 3/1975, đồng chí giữ chức vụ Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban Quân quản tỉnh Gia Lai. Năm 1976, sau khi nhập tỉnh Gia Lai - Kon Tum đồng chí giữ chức vụ Phó Bí thư - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum.
Từ tháng 7/1981 đến tháng 3/1983, đồng chí là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Kinh tế - Kế hoạch Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum. Từ năm 1983 đến năm 1988, là Trưởng Ban Kinh tế - Kế hoạch Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum. Tháng 12/1988 đến tháng 12/1989, đồng chí nghỉ công tác chuẩn bị nghỉ hưu. Đến tháng 01/1990, đồng chí nghỉ hưu.
Trong quá trình hoạt động cách mạng và công tác, đồng chí đã vinh dự được tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương cao quý của Đảng và Nhà nước như: Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Hai, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, Danh hiệu “Cán bộ tiền khởi nghĩa”, nhiều Huân, Huy chương, Bằng khen và các hình thức khen thưởng khác.