Tìm giải pháp tăng lợi nhuận cho người trồng cà phê ở Đông Nam Á

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Hầu hết những người trồng cà phê ở các nước đang phát triển thường thu về giá thấp, ngược lại, các nhà rang xay cà phê, các thương nhân quốc tế thống trị chuỗi cà phê toàn cầu và thu được phần lợi nhuận
Thu hoạch cà phê ở Đắk Lắk. Ảnh: Hoài Thu/TTXVN
Thu hoạch cà phê ở Đắk Lắk. Ảnh: Hoài Thu/TTXVN

Cà phê là một trong những sản phẩm nông nghiệp quan trọng nhất được mua bán trên toàn cầu.

Trong khi sản xuất cà phê tập trung ở các nước đang phát triển, tiêu thụ cà phê lại chủ yếu diễn ra ở các nước phát triển và các nền kinh tế mới nổi.

Hai quốc gia Đông Nam Á là Việt Nam và Indonesia nằm trong top 5 nhà sản xuất cà phê lớn nhất thế giới. Cà phê cũng là một nguồn thu xuất khẩu nông nghiệp quan trọng của Lào, mang về cho nước này 72,5 triệu USD vào năm 2021 (khoảng 0,5% GDP).

Theo báo cáo của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), năm 2020, hơn 20.000 hộ nông dân nhỏ ở Lào kiếm sống dựa vào việc bán hạt cà phê. Ngoài ra, hơn 300.000 người (khoảng 6% lực lượng lao động) làm việc trong ngành cà phê.

Hầu hết những người trồng cà phê ở các nước đang phát triển là những hộ sản xuất nhỏ thường thu về giá thấp đối với các sản phẩm của họ.

Ngược lại, các nhà rang xay cà phê, các thương nhân quốc tế thống trị chuỗi cà phê toàn cầu và thu được phần lợi nhuận đáng kể.

Trước đây đã có những hợp tác quốc tế nhằm nâng cao và ổn định giá cà phê, đáng chú ý nhất là Hiệp định Cà phê Quốc tế (ICA) năm 1962.

Tuy nhiên, sau khi cơ chế ICA sụp đổ năm 1989, do thiếu sự hỗ trợ từ các nước thành viên, giá cả cà phê quốc tế trở nên biến động hơn nhiều. Mức độ tập trung của thị trường cũng tăng lên và có xu hướng nghiêng về phía những người chơi lớn hơn.

Theo Tiến sỹ Prapimphan Chiengkul, thành viên Chương trình Biến đổi khí hậu Đông Nam Á - Viện Yusof Ishak Singapore, để đối phó với sự biến động giá này, một số sáng kiến phi chính phủ đã xuất hiện nhằm hỗ trợ sinh kế của người nông dân và tính bền vững của môi trường bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn sản xuất xã hội-môi trường để đổi lấy giá cao hơn.

Một số loại cà phê Việt Nam được giới thiệu và quảng bá tại Nam Phi. Ảnh: Hồng Minh/TTXVN
Một số loại cà phê Việt Nam được giới thiệu và quảng bá tại Nam Phi. Ảnh: Hồng Minh/TTXVN

Fairtrade International là một chương trình dán nhãn bền vững xuyên quốc gia đánh dấu các sản phẩm bằng biểu tượng Fairtrade.

Các sản phẩm thương mại công bằng thường được bán với giá cao hơn do các hộ nông dân nhỏ được đảm bảo mức giá tối thiểu cho cây trồng của họ để tránh bị giảm giá đột ngột.

Ngoài ra, nông dân được hưởng lợi từ Fairtrade Premium - một khoản thanh toán bổ sung trên giá bán được chi cho các mục đích có lợi cho xã hội - được trả cho các nhóm hoặc hợp tác xã của họ.

Nhiều người trồng cà phê Fairtrade cũng có chứng nhận hữu cơ đảm bảo sản xuất bền vững với môi trường. Tại Indonesia, có khoảng 25 hợp tác xã cà phê được chứng nhận Fairtrade và 98% trong số đó có chứng nhận hữu cơ.

Việc có chứng nhận hữu cơ và Thương mại công bằng sẽ tăng cơ hội thị trường cho người trồng cà phê. Họ cũng có thể bán cà phê với giá cao hơn cho những người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho cà phê bền vững.

Người mua cà phê có thể tạo dựng niềm tin và mối quan hệ lâu dài với các nhóm sản xuất để loại bỏ nhu cầu chứng nhận của bên thứ ba, vốn có thể gây phát sinh chi phí.

Hợp tác xã nông dân trồng cà phê Jhai (JCFC) ở Lào đã bán cà phê đặc sản cho Công ty Nhật Bản Alter Trade Japan (ATJ) từ năm 2010.

Thay vì yêu cầu chứng nhận hữu cơ và Fairtrade, ATJ đã cử 35 nhân viên đến làm việc với nông dân và kiểm tra quá trình sản xuất. ATJ cũng cung cấp các khoản thanh toán bổ sung giống như Fairtrade Premium.

Phản ánh xu hướng toàn cầu, nhiều người Đông Nam Á đã thưởng thức cà phê đặc sản chất lượng cao và "hưởng thụ không gian" cà phê.

Ngành cà phê đặc sản ở Thái Lan đã bắt đầu cách đây hai thập kỷ và dự kiến vẫn sẽ phát triển nhanh chóng trong vài năm tới. Xu hướng tương tự có thể được tìm thấy ở các nước Đông Nam Á khác.

Tại Singapore, Jakarta, Bangkok, Kuala Lumpur, Thành phố Hồ Chí Minh và Manila, các quán cà phê độc lập và chuỗi cà phê trong nước đã phát triển mạnh mẽ bên cạnh các chuỗi cà phê quốc tế.

Một số chuỗi cà phê Đông Nam Á có sự khác biệt với các chuỗi quốc tế bằng cách bán cà phê "kiểu truyền thống" như cà phê sữa đá và cà phê trộn với sữa chua hoặc lòng đỏ trứng của Việt Nam, kopi tubruk ở Indonesia, kafae boran ở Thái Lan và barako ở Philippines.

Nhiều quán cà phê đã trở thành nơi lui tới phổ biến với đồ trang trí được thiết kế đặc biệt cho những khách hàng trẻ tuổi, thích chụp ảnh selfie hoặc dùng mạng xã hội Instagram.

Các quán cà phê nằm ven sông hoặc trong các trang trại xung quanh Bangkok đã đón một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước vào cuối tuần tìm kiếm những kỳ nghỉ ngắn trong môi trường thiên nhiên, đặc biệt là khi các hạn chế dịch bệnh đã được nới lỏng.

Đồ uống đặc biệt và "hưởng thụ không gian" như vậy cho phép các quán cà phê này thu về giá tương đối cao. Tuy nhiên, lợi nhuận lại không chuyển sang phần thu nhập cho người trồng cà phê cũng như tính bền vững của sản xuất.

Mặc dù tiềm năng tăng trưởng cao đối với ngành cà phê hữu cơ và Fairtrade ở Đông Nam Á, nhưng chi phí chứng nhận vẫn còn khá cao đối với các nhóm trồng cà phê quy mô nhỏ. Nhiều người trong số họ phải vật lộn với thủ tục giấy tờ và để đáp ứng các tiêu chuẩn sản xuất cao hơn.

Các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ có thể giúp đỡ các nhóm sản xuất mới thành lập bằng cách trợ cấp phí chứng nhận hữu cơ hoặc Fairtrade cho đến khi các nhóm nông dân này tự chủ được về tài chính.

Ngoài ra, các chính phủ ASEAN có thể khuyến khích mua bán cà phê trong khu vực nhiều hơn vì sẽ mang lại lợi ích cho chính các nước sản xuất và tiêu thụ cà phê.

Do nhiều người tiêu dùng Đông Nam Á đã sẵn sàng trả giá cao hơn cho cà phê đặc sản và không gian thưởng thức cà phê, họ cũng có thể cân nhắc hỗ trợ các quán cà phê cam kết mua cà phê địa phương và khu vực được sản xuất bền vững, đồng thời mang lại cho người trồng cà phê mức giá hợp lý hơn.

Người tiêu dùng có thể đưa ra quyết định mua hàng có ý thức để thể hiện sự ủng hộ đối với những người trồng cà phê bền vững.

Theo TTXVN/Vietnam+

Có thể bạn quan tâm

Sẵn sàng thực hiện quy định EUDR tại Việt Nam

Sẵn sàng thực hiện EUDR tại Việt Nam

(GLO)- Ngày 8 và 9-12, tại phường Pleiku (tỉnh Gia Lai), Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) thông qua Dự án“Nông nghiệp bền vững vì hệ sinh thái rừng” tổ chức hội nghị tăng cường năng lực và chuẩn bị sẵn sàng thực hiện EUDR tại Việt Nam.

Khôi phục sản xuất sau “thiên tai kép”: Người dân mong sớm nhận hỗ trợ

Khôi phục sản xuất sau “thiên tai kép”: Người dân mong sớm nhận hỗ trợ

(GLO)- Trước những thiệt hại nặng nề sau đợt mưa lũ lịch sử, tỉnh Gia Lai đang khẩn trương hoàn thiện chính sách hỗ trợ khôi phục sản xuất. Đáng mừng là dù đang trong giai đoạn khó khăn nhưng nhiều doanh nghiệp đã chủ động chung tay bằng cách giảm giá giống, hỗ trợ kỹ thuật cho người dân.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình nông hội

Nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình nông hội

(GLO)- Khu vực phía Tây tỉnh Gia Lai hiện duy trì hơn 160 mô hình nông hội với khoảng 4.900 hội viên. Thực tế cho thấy dù vẫn còn một số hạn chế nhất định, nhưng những mô hình này góp phần quan trọng trong cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống và thúc đẩy liên kết trong sản xuất nông nghiệp.

Krong chuyển đổi cây trồng, kinh tế khởi sắc

Krong chuyển đổi cây trồng, kinh tế khởi sắc

(GLO)- Phát huy tiềm năng về thổ nhưỡng và khí hậu, những năm qua, Hội Nông dân xã Krong tích cực vận động người dân chuyển đổi cơ cấu, đa dạng hóa cây trồng, áp dụng khoa học kỹ thuật phù hợp, nhằm nâng cao giá trị nông sản, tăng thu nhập và cải thiện đời sống.

null