Tham vấn quốc gia về Dự án thủy điện dòng chính Luông Prabang của Lào

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Nhằm hạn chế thấp nhất những tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông, từ tháng 10-2019 đến 4-2020 Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam chủ trì tổ chức các hoạt tham vấn quốc gia về dự án thủy điện Luông Prabang của Lào. Quá trình tham vấn có sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam; các tổ chức Liên hiệp hội khoa học, các tổ chức phi chính phủ; các nhà khoa học và cộng đồng.

 Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam vừa chủ trì tổ chức hội thảo tham vấn quốc gia về dự án thủy điện Luông Prabang của Lào tại TP. Hồ Chí Minh (ảnh Internet)
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam vừa chủ trì tổ chức hội thảo tham vấn quốc gia về dự án thủy điện Luông Prabang của Lào tại TP. Hồ Chí Minh (ảnh Internet)



Theo báo cáo Ủy ban sông Mê Kông, hiện ở vùng thượng nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 11 công trình thủy điện. Các công trình thủy điện này đã gây tác động đáng kể tới vùng Hạ lưu vực sông Mê Kông, bao gồm cả ĐBSCL. Tại vùng hạ lưu sông Mê Kông, các nước Campuchia, Lào và Thái Lan cũng đang có kế hoạch xây dựng 11 công trình thủy điện trên dòng sông chính.

Việc phát triển thủy điện trên lưu vực sông Mê Kông, đặc biệt là thủy điện dòng chính luôn là một chủ đề nóng, đã và đang thu hút rất nhiều sự quan tâm và cũng gây ra nhiều mối quan ngại đối với các cơ quan quản lý, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, các cơ quan truyền thông, các tổ chức phi chính phủ và cộng đồng người dân. Đặc biệt là người dân sinh sống tại ĐBSCL về các tác động tiêu cực do các công trình thủy điện gây ra. Khác với các công trình thủy điện dòng chính sông Mê Kông trước đây, công trình thủy điện Luông Prabang của Lào sẽ có sự tham gia đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam nên càng thu hút nhiều hơn sự quan tâm và chú ý của dư luận xã hội.

Thực tế cho thấy, việc tham gia đầu tư của Việt Nam trong Dự án thuỷ điện Luông Prabang đã được cân nhắc và suy xét kỹ lưỡng mọi khía cạnh cả về kinh tế, kỹ thuật, môi trường, và xã hội. Điều này thể hiện sự xem xét cẩn trọng và toàn diện của Việt Nam trước khi đưa ra quyết định đối với phát triển thuỷ điện dòng chính sông Mê Kông. Với quyết định này, Việt Nam có thể chủ động tham gia từ giai đoạn thiết kế, đến xây dựng và vận hành công trình, chủ động nghiên cứu giám sát tác động, đồng thời triển khai và thúc đẩy các giải pháp giảm thiểu tác động về phía hạ du, đặc biệt là đối với ĐBSCL.

 Các hoạt động tham vấn có sự tham gia của các tổ chức Liên hiệp hội khoa học, các tổ chức phi chính phủ; các nhà khoa học và cộng đồng (Ảnh Internet)
Các hoạt động tham vấn có sự tham gia của các tổ chức Liên hiệp hội khoa học, các tổ chức phi chính phủ; các nhà khoa học và cộng đồng (Ảnh Internet)



Trong lưu vực sông Mê Kông, Việt Nam là quốc gia ở cuối nguồn, luôn tuân thủ thực hiện đầy đủ và nghiêm túc Hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Kông ký kết năm 1995 và Bộ Quy chế giám sát sử dụng nước, trước hết là vì lợi ích của quốc gia và hài hoà hợp tác toàn lưu vực. Do vậy, mặc dù Việt Nam có sự tham gia đầu tư vào dự án thuỷ điện Luông Prabang, mọi quy trình, thủ tục thực hiện tham vấn đối với Dự án này sẽ được hoàn toàn tuân thủ theo các quy định liên quan và phù hợp của Ủy hội sông Mê Kông quốc tế. Trong quá trình tham vấn, rà soát, đánh giá tài liệu dự án do Lào nộp, mọi tác động xuyên biên giới của công trình đối với hạ du, đặc biệt đối với ĐBSCL sẽ được xem xét kỹ lưỡng. Việt Nam sẽ kiên quyết yêu cầu Chủ đầu tư điều chỉnh thiết kế dự án, hoàn thiện các biện pháp giảm thiểu tác động, xây dựng các chương trình theo dõi, giám sát tác động đảm bảo đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật của Ủy hội sông Mê Kông quốc tế trước khi xây dựng công trình.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ trong đảm bảo an ninh lương thực, an ninh năng lượng, phát triển bền vững về môi trường và xã hội của quốc gia và của khu vực, mọi hoạt động về phát triển tài nguyên nước cần phải được nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng, khách quan và có căn cứ khoa học. Từ đó mới có thể có các giải pháp khả thi và phù hợp với thực tiễn, đồng thời thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong lưu vực.

Thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương có liên quan trong lưu vực Mê Kông thực hiện các nghiên cứu, đánh giá để có thêm các luận cứ vững chắc, trợ giúp hiệu quả cho quá trình ra quyết định đối với các hoạt động phát triển trong lưu vực sông Mê Kông nói chung và phát triển thủy điện dòng chính nói riêng. Đặc biệt, trước mắt quá trình tham vấn cho thủy điện dòng chính Luông Prabang cần phải trở thành hình mẫu cho áp dụng các giải pháp giảm thiểu tác động cho các công trình thủy điện dòng chính sông Mê Kông.

 P.V (th)
 

Có thể bạn quan tâm

Người trồng hoa tất bật cho vụ Tết

Người trồng hoa tất bật cho vụ Tết

(GLO)- Những ngày này, nhiều làng nghề trồng hoa ở khu vực phía Đông tỉnh Gia Lai lại rộn ràng không khí chuẩn bị cho vụ hoa Tết. Tuy nhiên, thời tiết thất thường và sâu bệnh phát triển mạnh khiến nhiều hộ trồng hoa cúc “đứng ngồi không yên”.

Ông Đào Văn Thái (phường Hoài Nhơn) chuyển đổi nghề hiệu quả đang được nhiều ngư dân xem là hình mẫu học tập. Ảnh: Diệp Bảo Sương

Gia Lai hỗ trợ ngư dân chuyển đổi nghề, bảo vệ sinh thái biển

(GLO)- Trước thực tế số lượng tàu khai thác hải sản quá nhiều, trong đó có một số hành nghề có thể gây ảnh hưởng xấu đến nguồn tài nguyên, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai đang phối hợp với các địa phương tìm phương án giúp ngư dân chuyển đổi nghề để phát triển bền vững.

Đến nay đã có 10/13,5 km của Dự án tuyến đường ven biển, đoạn Cát Tiến - Diêm Vân được đổ cấp phối đá dăm. Ảnh: T.Sỹ

Tiến độ dự án tuyến đường ven biển, đoạn Cát Tiến-Diêm Vân: Nhiều kết quả tích cực

(GLO)- Với sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn của chủ đầu tư và các nhà thầu, đến nay đã có 10/13,5 km của Dự án tuyến đường ven biển, đoạn Cát Tiến-Diêm Vân, được đổ cấp phối đá dăm. Tỷ lệ giải ngân vốn đạt gần 86% tổng vốn tỉnh phân bổ cho dự án trong năm 2025.

Nhiều khách hàng tiếp cận và vay vốn từ Agribank Bình Định. Ảnh: T.SỸ

Hơn 8.121 tỷ đồng vay đầu tư lĩnh vực lâm-thủy sản

(GLO) - Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh khu vực XI, hiện có 292 lượt khách hàng là các tổ chức, DN trên địa bàn tỉnh Gia Lai đã được vay hơn 8.121 tỷ đồng từ chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm-thủy sản để đầu tư sản xuất kinh doanh.

Nhiều hộ kinh doanh đến trụ sở Thuế cơ sở 1 để cung cấp thông tin về hoạt động kinh doanh và doanh thu. Ảnh: T.Sỹ

Hỗ trợ hộ kinh doanh áp dụng quy định thuế mới

(GLO)- Ðể giúp hộ kinh doanh không bỡ ngỡ khi chuyển từ phương pháp thuế khoán sang phương pháp kê khai kể từ ngày 1-1-2026 theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, cơ quan thuế đang tập trung hỗ trợ hộ kinh doanh tiếp cận và chủ động thực hiện các quy định mới.

Phù Mỹ Nam: Từ sợi bún quê đến sản phẩm OCOP

Phù Mỹ Nam: Từ sợi bún quê đến sản phẩm OCOP

(GLO)- Trên vùng đất Phù Mỹ Nam nắng nhiều, thiếu nước tưới, cây mì vẫn bền bỉ bén rễ, xanh lá, nuôi sống bao thế hệ người dân. Từ hạt tinh bột quê hương ấy, bà con thôn Vĩnh Nhơn (xã Phù Mỹ Nam) khéo léo chế biến thành bún mì số 8 trắng mịn, dẻo dai-sản phẩm nay đã được chứng nhận OCOP 3 sao.

Xây dựng nông thôn mới sau sáp nhập: Tập trung tháo gỡ vướng mắc, không để chương trình gián đoạn

Xây dựng nông thôn mới sau sáp nhập: Tập trung tháo gỡ vướng mắc, không để chương trình gián đoạn

(GLO)- Việc sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính cấp xã thời gian qua đã góp phần tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt ra một số khó khăn nhất định đối với việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

Các hộ nhận khoán quản lý, bảo vệ rừng của Vườn quốc gia Kon Ka Kinh phối hợp tuần tra, kiểm soát diện tích rừng nhận khoán. Ảnh: N.D

Chuyển biến tích cực trong quản lý, bảo vệ rừng ở Gia Lai sau sáp nhập

(GLO)- Sau hợp nhất, diện tích rừng và đất rừng khá lớn, tạo áp lực cho lực lượng quản lý, bảo vệ rừng vốn đã mỏng của Gia Lai. Thế nhưng, nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cùng chủ rừng, công tác quản lý, bảo vệ rừng đang có những chuyển biến rõ rệt.

null