Lò rèn làng Glung

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Năm 1978, sau khi ra trường, tôi được cử đến khảo sát công trình thủy lợi của xã Yang Nam, huyện Kông Chro. Anh Đinh Chiêm hồi ấy là cán bộ xã phụ trách mảng nông nghiệp đi cùng tôi.
Gần nửa buổi chiều, khi đến làng Glung, mưa đột ngột đổ xuống, anh em chúng tôi vội vã vào căn chòi tranh gần đó để trú. Thấy trong chòi có nhiều vật dụng lạ, tôi định hỏi thì anh Chiêm giải thích: “Đây là lò rèn đấy! Lò rèn này làm ra cái dao, cái cuốc của người Jrai chúng tôi”.
Trong chòi là những vật dụng hoàn toàn xa lạ với tôi: mấy gùi cát đóng cục vàng khè, một tấm da trâu làm thành chiếc túi lớn và một bếp lò đắp bằng đất sét chứa than lửa còn nóng rực. Tôi càng tò mò hơn khi thấy một người đàn ông đã lớn tuổi đang ngồi mài dao. Thấy tôi tò mò, ông lên tiếng: “Những gùi cát kia là sắt đấy. Nhà ai muốn có cái rựa, cái cuốc thì vào khe núi kia hốt cát lòng suối mà đãi lấy xái đen, góp lại nhiều ngày, nhiều tháng mới gùi đến đây để đốt lên cả ngày cho chảy sắt ra rồi rèn”. Rồi ông nói thêm: “Cũng phải mất 10 gùi mới làm ra được một con rựa sắt bằng gang rưỡi tay. Sau đó mới đem lên hòn sắt lớn này mà ghè ra thành lưỡi rựa, lưỡi cuốc”.
Ảnh minh họa: Internet
Ảnh minh họa: Internet
Tôi thắc mắc: “Thế hòn đe sắt kia tìm đâu ra lớn thế?”. Anh Chiêm tiếp lời: “Tôi cũng không biết hòn sắt đó có từ bao giờ. Các cụ bảo, xưa kia muốn có hòn đe này, cả làng phải bỏ hàng tháng trời đi đãi sắt ở các khe suối về đốt lửa mấy ngày đêm mới ra được khối sắt. 2 cái búa để đập này cũng được làm như vậy”. Hòn đe méo mó, to bè bằng đầu gối nằm trên khúc gỗ to, mặt trên nhẵn láng, còn 2 chiếc búa bằng nắm tay có hình thù cũng không mấy đẹp đẽ. Chỉ vào miếng bao da trâu, anh Chiêm giải thích thêm: “Nó là cái bao làm ống thổi hơi, khi đạp vào sẽ dẫn hơi thổi vào lò cho lửa bừng lên để đốt sắt”.
Mãi đến năm 1987, tôi mới có dịp trở lại làng Glung. Gặp lại người mài dao năm xưa, tôi được biết ông tên là Kpă Giao-người chuyên làm những vật dụng sản xuất, sinh hoạt cho dân làng từ hồi còn là thanh niên. Vừa làm cùng với nhóm trai trẻ, ông Giao vừa kể: Mấy làng xung quanh đây chỉ có 1 lò rèn này thôi. Khi xưa, lúc còn là thiếu niên, ông đã phải theo làng dời đi liên tục vì chiến tranh. Cả làng Glung này phải lên tận núi cao Kông Chro vào các hang đá để tránh bom đạn. Cũng nhờ các con suối kia mà làng có đủ sắt để làm nên các dụng cụ như rìu, rựa làm rẫy, làm mũi giáo, mũi mác và đầu bịt cho mũi tên. Nhưng cũng không được nhiều, cả làng góp công sức hàng tháng trời mới đủ cát làm được vài ba cái rìu, cái rựa để khai hoang trồng trỉa.
Để làm được chiếc rựa, sau khi có lõi sắt, một thanh niên phải đạp cái bọc da trâu thổi hơi lửa bừng liên tục gần một giờ đồng hồ cho sắt đỏ rồi kê lên khối đe. Một người vịn, 2 người dùng búa đập nhanh cho khối sắt kia mỏng dần, đến khi sắp hoàn thành mới dùng dụng cụ mài, gọt cho mỏng mép thành con rựa, sau cùng là mài trên đá cho bén. Công đoạn cuối cùng là “trui cho sắt già” bằng cách nung đỏ phần lưỡi con dao rồi lấy ra khỏi lửa, dùng cây chổi nhỏ nhúng vào một chén nước gì đó phết lên lưỡi dao rồi nhanh tay nhúng đột ngột vào nước lạnh vài giây. Làm lại 4, 5 lần đến khi dao gần nguội thì nhúng hẳn vào nước. Ông Giao bảo làm như vậy sắt sẽ không bị giòn, khi chặt cây cứng sẽ không bị mẻ. Công đoạn cuối cùng là cắm cán cho dao, rựa.
Ông Giao ngồi trầm ngâm giây lát rồi nói: “Sau này, dân làng đi rừng thấy những ống đèn pháo sáng thì nhặt về cắt ra làm lưỡi cuốc, lưỡi yết. Mảnh bom thì làm ra dao, rựa. Còn vỏ nhôm của bom thì tận dụng gò nồi, gò ăng-gô để nấu thức ăn. Sau ngày giải phóng là sướng rồi. Rựa, rìu, dao người Kinh mang vào bán tận làng. Xoong nồi có đầy đủ. Không phải vất vả đi đãi cát về nấu lấy sắt”.
Đã gần 40 năm trôi qua, có lẽ, ông Giao đã về với ông bà tổ tiên, cái lò rèn năm xưa cũng đã hoang phế. Nhưng câu chuyện quanh lò rèn cổ ấy vẫn lưu luyến trong tâm trí tôi với niềm cảm phục về sự sáng tạo trong khó khăn của đồng bào sống ở vùng sâu, vùng xa như Kông Chro.
AN SINH

Có thể bạn quan tâm

Người chắp cánh cho phong trào Pickleball phố núi Pleiku

Người chắp cánh cho phong trào Pickleball phố núi Pleiku

(GLO)- Cùng với sự phát triển như vũ bão của phong trào Pickleball, việc livestream, quảng bá hình ảnh là nhu cầu thiết yếu của các “Pick thủ”. Nắm bắt xu hướng ấy, anh Nguyễn Văn Tường (SN 1990, tổ 3, phường Tây Sơn, TP. Pleiku) đã xây dựng kênh truyền thông chuyên quảng bá môn thể thao này.

Làng Al nuôi cá gây quỹ xây dựng nông thôn mới

Làng Al nuôi cá gây quỹ xây dựng nông thôn mới

(GLO)- Tận dụng nguồn nước dồi dào từ lòng hồ Ia Mơ Nông, người dân làng Al (xã Ia Mơ Nông, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) đã triển khai mô hình nuôi cá nước ngọt để gây quỹ. Mô hình không chỉ góp phần thắt chặt tình đoàn kết buôn làng mà còn tạo nguồn kinh phí để xây dựng nông thôn mới.

Chư Sê: Khởi công “Nhà nhân ái” cho nạn nhân chất độc da cam và hộ nghèo

Chư Sê: Khởi công “Nhà nhân ái” cho nạn nhân chất độc da cam và hộ nghèo

(GLO)-Ngày 7-6, Hội Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai) phối hợp với Hội Bảo trợ trẻ em Việt Nam nhiễm Dioxin Cộng hòa Pháp, Quỹ từ thiện Bông Hồng Nhỏ, Công ty TNHH Phát triển cộng đồng Bảo vệ Tương lai TP. Hồ Chí Minh khởi công 2 căn “Nhà nhân ái” tại làng Ring (xã Hbông).

Chuyện cơm gạo thời bao cấp

Chuyện cơm gạo thời bao cấp

(GLO)- Mấy tháng nay, trên các phương tiện truyền thông đưa tin gạo giả được tung ra thị trường, cạnh tranh không lành mạnh với nông dân và người làm ăn chân chính, đe dọa đến sức khỏe người tiêu dùng và làm mất lòng tin của cộng đồng.

Đại tá Phạm Khánh Hồng tái đắc cử Bí thư Đảng ủy Lữ đoàn Công binh 280 (nhiệm kỳ 2025-2030)

Đại tá Phạm Khánh Hồng tái đắc cử Bí thư Đảng ủy Lữ đoàn Công binh 280 (nhiệm kỳ 2025-2030)

(GLO)- Sau gần 2 ngày làm việc với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc, đầy trách nhiệm, Đại hội đại biểu Đảng bộ Lữ đoàn Công binh 280 (Quân khu 5) lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2025-2030) đã hoàn thành toàn bộ nội dung, chương trình đề ra và thành công tốt đẹp vào chiều 2-6.

null