Kể cả khi lên rẫy, lúc dựng nhà, trồng lúa, trỉa ngô trên nương, khi chung vui bên ché rượu cần nồng ấm… cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng 669, xã Đăk Nhoong, huyện Đăk Glei thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum đều hướng vào mục tiêu giúp bà con dân tộc Giẻ - Triêng ở vùng cao biên giới này được học “cái chữ” của Đảng.
Đồn Biên phòng 669, xã Đăk Nhoong cách thành phố Kon Tum gần 150km. Nơi đây quanh năm mây phủ, trời lạnh rét. Khung cảnh trên đường đi khiến tôi chợt nhớ tới câu thơ trong bài “Tiếng hát đi đày” của nhà thơ Tố Hữu viết về vùng đất này: “Đường lên Đăk Sút, Đăk Pao/ Đèo leo ngọn thác, cầu treo mặt ghềnh”.
Chữ về cho lúa thêm bông
Bộ đội Biên phòng dạy xóa mù chữ cho học sinh dân tộc thiểu số ở Kon Tum. |
Trên đỉnh cao Đăk Nhoong thuộc phía tây Trường Sơn của huyện biên giới Đăk Glei (tỉnh Kon Tum) có một đồn biên phòng vững chãi trên đỉnh núi: Đồn Biên phòng 669 thuộc Bộ đội Biên phòng tỉnh Kon Tum. Những người lính mang quân hàm xanh trên núi rừng cao nguyên này không chỉ vững tay súng bảo vệ hơn 30km đường biên giới giáp với nước bạn Lào mà còn mở được 60 lớp học xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho trên 700 lượt người dân của xã vùng cao Đăk Nhoong, huyện Đăk Glei.
Trung tá, nguyên Đồn trưởng - Bí thư Chi bộ đồn 669 Nguyễn Ngọc Lệ cho biết: Xã Đăk Nhoong có hơn 300 hộ, gần 1.600 khẩu, tất cả là bà con dân tộc Giẻ - Triêng sống rải rác ở 7 làng, địa hình chia cắt, đất dốc đồi cao, đời sống của bà con rất khó khăn. Đặc biệt là số người mù chữ chiếm hơn 90% số dân. Trước thực trạng này, với quyết tâm mang ánh sáng văn hóa đến cho người dân, sau nhiều lần bàn bạc với Đảng bộ xã, Chi bộ Đồn Biên phòng 669 đã ra Nghị quyết chuyên đề về: “Xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học cho người dân xã Đăk Nhoong” và coi đây là nhiệm vụ chính trị cấp bách, chiến lược ở nơi “thâm sơn cùng cốc” này.
Đảng viên trẻ, trung úy - Bí thư Chi đoàn Trần Quốc Tuấn khi ấy được Chi bộ giao làm Đội trưởng “Đội vận động quần chúng” gồm 12 đoàn viên và đảng viên trẻ đã tốt nghiệp phổ thông trung học và biết tiếng dân tộc Giẻ - Triêng, với nhiệm vụ: Ban đêm dạy học, ban ngày cùng với bà con tổ chức sản xuất và chăm lo đời sống mọi mặt cho nhân dân ở các bản làng.
Trần Quốc Tuấn tâm sự với chúng tôi: “Lúc được Chi bộ giao nhiệm vụ dạy học, em lo lắm. Bởi vì từ trước đến nay, trong xã không có người học hết lớp 5, trẻ em học được vài ba tháng là bỏ học đi làm rẫy hết”. Tuấn sống ở nơi biên giới này cũng khá lâu, đã gắn bó với người Giẻ - Triêng và thấy thương bà con lắm, thương thật sự, nhất là trẻ em. Với trách nhiệm được lãnh đạo đồn giao là đội trưởng, anh cùng các đồng đội Đặng Trung Trực, Nguyễn Văn Long… hằng đêm đến nói chuyện với các già làng và một số người có uy tín để tuyên truyền, vận động bà con đăng ký đi học. Một số thì nghe theo lời của đội trưởng Tuấn và anh em trong tổ, nhưng số người không ủng hộ thì nhiều.
Trần Quốc Tuấn nói với bà con rằng: “Có cái chữ thì bà con mới làm cho cây lúa thêm nhiều bông, ngô nhiều hạt hơn, mới biết cách đưa điện sáng về làng, làm đường đi khỏi lầy lội; có chữ thì sẽ không nghèo, không còn đói cái bụng nữa...”. Người ủng hộ thì chỉ im lặng không nói. Người không ủng hộ thì cho rằng: “Ô, cái cán bộ Tuấn nó chỉ nói hay cái miệng thôi. Làm không có được đâu, học cái chữ khó lắm...”.
Vì thế, không chỉ tuyên truyền mà Tuấn và đồng đội mỗi khi có việc phải ra huyện hay về tỉnh đều đưa một số người là già làng và người có uy tín đi theo, dẫn họ đến thăm một số gia đình dân tộc thiểu số khác để bà con thấy chuyện học hành và cuộc sống mới của một số dân tộc khác như Xơ Đăng, Bah Nar ở các huyện Đăk Tô, Đăk Hà trong tỉnh.
Thế là bà con dần dần nghe ra, cho con em đăng ký đi học. Học viên nhỏ nhất là 7 tuổi, cao tuổi nhất là 38. Trần Quốc Tuấn đề nghị với Chi bộ và lãnh đạo đồn cùng với chính quyền và nhân dân xây dựng 5 phòng học, đóng 5 bảng đen, 100 bộ bàn ghế phục vụ cho việc khai giảng các lớp học đầu tiên. Tuấn nhớ lại mà vẫn như còn xúc động: “Ngày khai giảng lớp học đầu tiên đúng như ngày hội, và còn hơn cả các lễ hội đâm trâu, mừng lúa mới... của làng”.
Vì đi học đông như thế là một sự kiện chưa từng có ở vùng biên giới heo hút quanh năm mờ sương như Đăk Nhoong này. Đảng viên trẻ Nguyễn Văn Minh được phụ trách ở làng Đăk Nớ Pin là làng xa nhất, nhớ lại: “Ngày khai giảng hôm ấy, hầu hết 12 anh em trong đội đã khóc… Khóc vì vui sướng với thành quả của những tháng ngày không quản gian khó để thuyết phục bà con dân làng. Hầu như gia đình nào cũng tự giác, hồ hởi đưa con em mình đến các lớp học”.
Trở thành “Thầy giáo bản làng”
Mở được lớp đã khó, việc duy trì và phát triển số người học lại càng khó gấp bội. Thời kỳ đầu, số người bỏ học quá nhiều. Có những lớp chỉ còn từ 7-10 người. Vì thế, những chiến sĩ trong đội dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn phải ngày đêm bám dân, bám lớp, thực sự phải 4 cùng (cùng làm, cùng ăn, cùng ở, cùng học) với bà con ở tất cả các buôn làng.
Đội phải xin Chỉ huy đồn chi viện thêm một số đoàn viên và đảng viên trẻ để bổ sung vào đội công tác. Khi lên rẫy, lúc dựng nhà, trồng lúa, trỉa ngô trên nương; khi chung vui bên ché rượu cần, cán bộ, chiến sĩ trong đội đều hướng vào mục tiêu duy trì việc học hành. Từ đó, bà con hiểu được “cái bụng” tốt của người lính nên đã coi anh em như những người con thân yêu nhất.
Riêng đội trưởng Trần Quốc Tuấn thì được bà con gọi bằng cái tên yêu quý “Thầy giáo bản làng A Tuấn”. Những học sinh đã bỏ học trước đây lại lần lượt rủ nhau đến lớp theo lời của thầy A Tuấn. Tôi hỏi Tuấn: “Việc khó như vậy em không thấy nản lòng?”. Tuấn nhìn tôi, không nói gì rồi cầm cây đàn ghi ta ngân nga: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai...”. Lời hát vọng vang vào vách núi. Tôi cảm thấy ấm lòng. Tuấn nói rằng: “Là đảng viên trẻ lại được Chi bộ giao việc khó, em tự hứa với lòng mình để quyết tâm đưa cái chữ về bản làng và làm cho bằng được”.
Cả xã Đăk Nhoong có 7 làng. Làng xa nhất là Đăk Nớ Pin phải mất một ngày đường đi bộ. Mỗi chiến sĩ - thầy giáo được giao nhiệm vụ làm “chủ nhiệm” lớp của 1 làng. Người vất vả nhất và cũng nhiều kỷ niệm hơn cả là thiếu úy Đặng Trung Trực, phụ trách làng Roóc Mầm - Roóc Mẹt; Nguyễn Văn Minh phụ trách làng Đăk Nớ Pin... Có nhiều lúc học sinh ốm, các anh phải thay nhau cõng vượt rừng, băng suối về đồn điều trị.
Có một lần, hai chiến sĩ Nguyễn Văn Long và Nguyễn Quốc Tuấn trên đường đến lớp, khi đi qua rẫy nghe tiếng khóc của trẻ con và tiếng rên của phụ nữ, các anh vội tìm đến và thấy người mẹ trẻ vừa đẻ đứa con trai ở ngoài bìa rừng. Người mẹ đã đuối sức yếu ớt ôm con. Hai anh em lập tức thay phiên nhau cõng hai mẹ con hơn chục cây số đường rừng đưa về đồn cứu chữa qua cơn nguy biến. “Thế rồi cũng mẹ tròn còn vuông” - Nguyễn Văn Long cười mà ánh mắt chứa chan niềm tự hào, hạnh phúc.
Có những chiến sĩ suốt 3 tháng liền, mỗi ngày phải đảm nhận 3 lớp: Sáng lớp 1, chiều lớp 3, tối lớp xóa mù chữ. Vất vả là thế nhưng rồi bằng nhiệt huyết của tuổi trẻ và tấm lòng thương yêu bà con, tất cả đã vượt qua và mang lại thành công ngoài mong đợi. Dưới sự chỉ huy của đội trưởng Trần Quốc Tuấn, đội đã mở được 60 lớp với hơn 700 người được xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Qua các lần kiểm tra theo chương trình của Bộ GDĐT, 100% học viên đạt yêu cầu, trong đó có 20-25% đạt khá giỏi hằng năm.
Điểm sáng văn hóa vùng biên
Song song với nhiệm vụ dạy chữ, mang ánh sáng văn hóa về xã Đăk Nhoong, Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Kon Tum còn tổ chức xây dựng Đăk Nhoong thành mô hình “điểm sáng văn hóa vùng biên” với việc dành trên 3 tỉ đồng giúp xã định canh định cư cho gần 100% số hộ; làm mới 20km đường liên xã, xây dựng 2 trường học kiên cố tại làng Đăk Ung và cụm Roóc Mẹt, Roóc Mầm, xây dựng 3 công trình nước sạch, 2 đập thủy lợi để bà con trồng lúa nước và trồng gần 100 hécta cây ăn quả các loại mang lại màu xanh tươi trên vùng cao biên giới xa xôi của tổ quốc.
Vùng cao biên giới Đăk Nhoong đang thay da đổi thịt từng ngày, đời sống của người Giẻ - Triêng ở nơi đây đã được cải thiện.
Nguyễn Khánh Hòa/laodong