(GLO)- Tôi gặp lại o Nhị-nguyên mẫu bài thơ “Gửi em cô thanh niên xung phong” của nhà thơ Phạm Tiến Duật, trong đó có câu thơ: “Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là Thạch Nhọn”. Tuy là người cùng quê nhưng tôi ít khi gặp o Nhị. Nhớ một lần vào năm 2000, o có nhờ tôi liên hệ gặp nhà thơ Phạm Tiến Duật qua điện thoại. o kể cho tôi nghe câu chuyện gặp nhà thơ Phạm Tiết Duật. Đó là năm 1968, o ở Đại đội 555 thuộc Tổng đội Thanh niên xung phong 55 san đường lấp hố bom tại đường 15A ở Phú Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh).
Trong tiểu đội, o là người cao nhất, vốn là vận động viên bóng chuyền của Tổng đội đã từng thi đấu ở Quảng Bình được giải nhất. o cao 1,67 mét, đã từng vác cả hòm đạn 50-70 kg để giải phóng hàng cho xe. Tối đó, o mặc chiếc áo phin lơ xanh vì áo quân phục lấm bụi đất đường giặt chưa khô. Tiểu đội o đang san đường thì gặp một đoàn xe tải từ Quảng Bình ra. Vì đường còn vướng hố bom nên nhiều lái phụ phải nhảy xuống để làm cọc tiêu chỉ đường. o kể: “Hồi nớ, bọn tui có biết ông Duật là ai mô. Thanh niên xung phong với bộ đội lái xe là bạn thân và hay trêu đùa nhau. Mỗi lần xe qua, các anh tài xế rất vui tính hỏi vọng xuống: “Có yêu anh không?”. Bọn o đáp lại ví von: “Bao giờ chạch đẻ ngọn tre-Thì em mới lấy lái xe làm chồng”. Nói là nói thế những ai cũng thương cánh lái xe chạy thâu đêm. Anh nào mắt cũng hõm sâu, râu ria mọc không kịp cạo, nhưng dũng cảm lắm. Bữa đó có lẽ o là người cao nổi bật lên hẳn, lại mặc áo màu sáng nên có một anh bộ đội lại gần. Anh ấy dáng dong dỏng cao, đặc biệt có cái mũi Tây, nói giọng Bắc, vai đeo cái radio cùng cái sắc-cốt bên người như các anh nhà báo.
Tác giả và o Nhị bên gò cá Thạch Kim. Ảnh: N.N.P |
Anh đó hỏi o: “Cô ở đâu”. Vốn tinh nghịch từ nhỏ, o đáp ngay: “Em ở Thạch Nhọn anh nờ”. Anh bộ đội ngớ ra: “Sao lại có xã Thạch Nhọn?”. Lũ bạn o đấm vào lưng nhau thùm thụp: “Đúng rồi đó, em nớ ở Thạch Nhọn, còn bọn tui ở Thạch Tày”. Anh bộ đội vui lây với không khí thời chiến rất tươi trẻ ấy lại cười: “Có xã Thạch Tày à”. Cả bọn lại cười rộ lên: “Là Thạch Bằng cạnh Thạch Kim đó anh à”. Cứ tưởng chuyện đó qua đi, không ai nhớ thì một hôm ông Nghinh-Đại đội trưởng gọi o lên gặp: “O nói chi mà để người ta đọc thơ trên đài nói o lừa Thạch Kim là Thạch Nhọn đó?”. Thôi chết, o giật mình. Tưởng nói đùa ai hay anh bộ đội nhà thơ đó đã viết bài thơ đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam. Ông Nghinh nhăn mặt: “Này, tôi nói cho o biết. May đó là nhà thơ chứ là cán bộ Trung ương thì o đi tù rồi đó”. O sợ hết hồn ngồi im thim thít.
Hôm đó, o và nhà thơ Phạm Tiến Duật nói chuyện qua điện thoại khá lâu. Lát sau thấy o mắt đỏ hoe. Tôi hỏi: “Gặp nhà thơ thì vui sao o lại khóc”. O bảo “Anh Duật tình cảm lắm, cứ hỏi mãi về hoàn cảnh của o và những bạn bè thanh niên xung phong. Anh còn kể, mới viết xong trường ca về tiếng chuông chùa, về những nữ thanh niên xung phong Thái Bình trở về sau chiến tranh vào chùa đi tu. Anh có đọc cho o nghe một đoạn, không cầm được nước mắt chú ạ.
Chúng tôi đến nhà o vào một buổi chiều, vì buổi sáng o phải đẩy xe ra gò cá để bán hàng vặt cho những người đi biển. Xe hàng vặt của o là vài chục bó rau, mươi củ su hào, ít cân cà chua và những bó hành, ngò... O bảo: “Nghề ni và gánh hàng ni là của mẹ tui truyền lại cho”. O đon đả mời chúng tôi vào nhà thân tình như khách quen đã lâu với dáng nhanh nhẹn của một cầu thủ bóng chuyền ngày nào. Tôi không tin nổi vì trước mắt mình không phải là bà lão đã 70 tuổi-o sinh năm 1946. Vẫn tiếng cười nói rộn rảng, vẫn giọng đùa đùa dí dỏm và trong câu chuyện cao hứng o còn đọc thơ và hát cho chúng tôi nghe những câu hò ứng khẩu, đối đáp với cánh lái xe, bộ đội hồi đó. Tôi chú ý có một đàn gà con lục tục quấn quýt quanh chân o. Trong khi chúng tôi đang hỏi chuyện o trong ngôi nhà bài trí đơn giản, có treo mấy tấm ảnh và tấm huy chương thời thanh niên xung phong thì bất ngờ một đàn chim sẻ từ cây dâu trồng trước sân nhà o sà xuống nhặt thóc cùng với bầy gà con trông thật đầm ấm.
Câu chuyện của chúng tôi quay về nhà thơ Phạm Tiến Duật, khi đó ông bị ung thư phổi đang điều trị ở Viện Quân y 108. Tôi nhớ trước đó ít lâu có lần ra Hà Nội họp, o Nhị đã gửi cho nhà thơ món quà biển là 1 kg mực khô loại 1 khá ngon. O dặn: “Nhờ chú đưa cho anh Duật uống bia để làm thơ. Bia hơi Hà Nội vốn đã ngon mà uống với mực khô Thạch Nhọn thì còn gì bằng”. Nói rồi o cười: “Chú Phú này, mực to loại 1 ta gọi là mực kim”. Lúc gặp nhà thơ ở cổng Hội Nhà văn, khi nghe tôi nói o Nhị gửi mực Kim, anh Duật cười phá lên: “Lại kim, lại nhọn nữa rồi. Kim mà to thế này à”. Và sau đó ít lâu o Nhị được bạn bè nhà thơ và người thân của ông đón ra Hà Nội 5 ngày thăm nhà thơ. Cùng đi có cậu con trai đầu của người chị cả. Khi bước lại gần giường bệnh, anh Duật không còn nói được nữa, nhưng vẫn mở mắt đưa bàn tay gầy guộc ra bắt, o Nhị ghé vào tai anh thì thầm: “Anh Duật ơi! em là Nhị thanh niên xung phong ở Thạch Kim, Thạch Nhọn đây”. Ông cố mở mắt một lần nữa rồi mệt mỏi nhắm lại. Giọt nước mắt nóng hổi của o rơi xuống gò má vàng vọt của ông thì bất ngờ từ khóe mắt nhà thơ ứa ra giọt nước mắt như cả hai muốn hòa tan vào nhau, như có một luồng điện thần giao cách cảm.
Nguyễn Ngọc Phú