Gánh bầu trong lễ cưới truyền thống

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

(GLO)- Gánh bầu (gánh xiểng) là vật dụng để đựng lễ vật trong các dịp lễ cưới hỏi truyền thống của người Việt vùng Nam Trung Bộ. Đặc biệt, ở vùng Bình Định, Phú Yên, gánh bầu được xem là một trong những vật dụng không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày và gắn liền với lễ cưới truyền thống qua bao đời của người dân nơi đây.

Theo dòng chảy của lịch sử, nửa sau thế kỷ XVII, An Khê là nơi lớp cư dân người Việt đầu tiên đến khai hoang, lập ấp. Khi sinh sống trên vùng đất mới, họ đã mang theo truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa cộng đồng các dân tộc ở Gia Lai. Ngày nay, hình ảnh về gánh bầu gắn liền với các nghi thức cưới hỏi truyền thống mãi in đậm trong tâm trí của người Việt vùng An Khê.

Bầu được làm bằng tre, miệng túm, có nắp đậy, đáy bằng, phần đáy được gia cố 2 thanh gỗ chéo hình chữ thập làm chân bầu; bên ngoài thân bầu tạo những thanh tre bản dẹp đặt song song theo chiều thẳng đứng kết nối vành miệng và đáy tạo thành bộ khung sườn vững chắc; gờ miệng có 4 quai ở 4 góc để luồn dây khi gánh. Để làm được gánh bầu chắc chắn, có độ thẩm mỹ cao, người thợ phải chọn những thân tre già, thẳng, có độ cứng vừa phải. Tre được chẻ thành từng sợi nan bản dẹp khoảng 6-8 mm, vót mỏng, sau đó được hơ qua lửa hoặc gác giàn bếp một thời gian nhất định để vừa tạo màu vừa chống mối mọt. Người thợ sử dụng kỹ thuật đan nong đôi trong quá trình đan bầu. Với những sợi nan được chuốt láng, người thợ khéo léo, tỉ mỉ vừa đan vừa tạo hình những hoa văn sống động. Đan bầu khó hơn so với đan nong, nia, rổ, rá ở chỗ gầy đan mê sau đó đan giáp lại thành vòng tròn, khít mí giữa 2 mối giáp được xử lý một cách tinh tế, chỉ những người có tay nghề cao mới làm được.

Gánh bầu trong lễ cưới truyền thống ảnh 1

Gánh bầu được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh. Ảnh: Xuân Toản

Bầu sau khi hoàn thành có đường kính khoảng 40 cm, cao khoảng 30-35 cm. Việc tạo hoa văn cho đôi bầu không theo khuôn mẫu có sẵn mà phụ thuộc vào sự sáng tạo của người làm và yêu cầu của bên đặt hàng. Đôi lúc hoa văn được bố trí trên gờ miệng, đôi lúc thể hiện trên thân với nhiều đề tài khác nhau nhưng tập trung là các họa tiết hình học như hình thoi, tam giác, chữ thập… Gánh bầu có 2 loại: loại có hoa văn thường dùng để đựng lễ vật trong các nghi lễ cưới hỏi, loại không có hoa văn thì sử dụng cho việc buôn bán trong cuộc sống hàng ngày (bún, gạo, đậu, mè, cốm…) hoặc để cất giữ những vật dụng trong sinh hoạt như những chiếc tủ nhỏ.

Ông Phan Đình Tư (xã Xuân An, thị xã An Khê) cho biết: Ngày trước, chỉ những gia đình quan lại hoặc khá giả mới sở hữu gánh bầu, còn lại phải đi thuê hoặc chỉ sử dụng mâm quả đựng lễ vật đơn giản. Với mong muốn cho đôi vợ chồng trẻ được thuận buồm xuôi gió, thủy chung son sắt, việc gánh bầu phải do một người đảm nhiệm từ đầu đến cuối trong các lễ thức, không được thay đổi người gánh bầu, trừ trường hợp người gánh bầu đau ốm, bệnh tật.

Gánh bầu không làm sẵn để bán như một số mặt hàng đan lát khác, mà chỉ làm cho gia đình sử dụng hoặc khi có người đặt hàng. Sau ngày giải phóng, ở vùng An Khê, Đak Pơ, nhiều gia đình vẫn còn sử dụng đôi gánh bầu trong các lễ cưới hỏi. Đến thập niên 90 của thế kỷ trước thì giảm dần và hiện nay thì hầu như không gia đình nào còn sử dụng. Hơn nữa, ngày nay, nhiều vật dụng mới tiện nghi hơn được thay thế, một số nghi lễ trong cưới hỏi cũng giản lược, người thợ làm bầu cũng thưa dần nên số lượng gánh bầu ngày một ít.

Có thể bạn quan tâm

Xôn xao mùa hoa bưởi

Xôn xao mùa hoa bưởi

(GLO)- Hôm mùng 8-3, tôi nhận một tin nhắn chúc mừng kèm hình ảnh một chùm hoa bưởi. Lòng chợt xao xuyến, bâng khuâng, không phải vì người gửi tin ấy mà vì chùm hoa bưởi đã làm sống dậy những ngày rất xa.

Cần chấn chỉnh việc treo cờ Tổ quốc không theo quy định

Cần chấn chỉnh việc treo cờ Tổ quốc không theo quy định

(GLO)- Cờ đỏ sao vàng là biểu tượng thiêng liêng của Tổ quốc. Việc treo cờ trong các ngày lễ, Tết hay sự kiện chính trị trọng đại của tỉnh, đất nước đều tuân thủ theo quy định và trở thành nét đẹp văn hóa truyền thống của người Việt. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng 5 cánh tung bay nhắc nhở thế hệ hôm nay về lòng biết ơn đối với những người đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc và cũng để mỗi người dân đất Việt thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc.

Mùa hoa gạo nở trong ký ức

Mùa hoa gạo nở trong ký ức

Cây gạo cổ thụ đầu làng đã bị người ta chặt. Tôi cũng không nhớ từ khi nào, nhưng mỗi lần về làng, dừng lại nơi đó vẫn cứ thấy bồi hồi. Giờ những chùm hoa đỏ chỉ còn chập chờn trong ký ức.
Có một phố núi trong tim

Có một phố núi trong tim

(GLO)- Tôi đã từng nghe, đại ý, du lịch là dịch chuyển từ nơi sống chán nản của mình đến nơi sống chán nản của người khác. Tôi cũng từng đọc: “Các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân một cách khôn ngoan rằng nên đổi gió và thay đổi khung cảnh sống” và “hành trình của chúng ta là những chuyến đi vòng quanh, các bác sĩ chỉ kê đơn cho những căn bệnh ngoài da” (“Walden-Một mình sống trong rừng” của Henry David Thoreau).

Gương mặt thơ: Đoàn Mạnh Phương

Gương mặt thơ: Đoàn Mạnh Phương

(GLO)- Đoàn Mạnh Phương là một cái tên rất quen trong làng thơ Việt. Anh nổi lên khi đạt liên tiếp 2 giải thưởng “Văn học tuổi xanh” những năm 1993-1994 của thế kỷ trước, rồi sau đó là các giải thưởng của Báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) và Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam...

Về làng Chăm H’roi ở Krông Pa

Về làng Chăm H’roi ở Krông Pa

(GLO)- Buôn Ma Giai ở xã Đất Bằng có lẽ là ngôi làng có đông người Chăm H’roi định cư nhất của huyện Krông Pa nói riêng và cả tỉnh Gia Lai nói chung. Về thăm buôn, hỏi chuyện người già, chúng ta sẽ biết thêm nhiều điều thú vị về một thời đã qua trong lịch sử.

Phạt vạ bằng… thổ cẩm

Phạt vạ bằng… thổ cẩm

(GLO)- Đời sống văn hóa của các dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên là vô cùng phong phú, trong đó có nhiều điều ta ngỡ như đã biết nhưng hóa ra vẫn chưa hiểu rõ. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe đến tục phạt vạ bằng… trang phục thổ cẩm của bà con Bahnar xã Kông Lơng Khơng, huyện Kbang.

Đọc sách thời bao cấp

Đọc sách thời bao cấp

(GLO)- Những năm bao cấp, đời sống gia đình còn khó khăn, tiền bạc thì họa hoằn lắm một học trò nghèo như tôi mới có quyền sở hữu. Vậy nên, khi học bài xong, tôi theo lũ bạn đi nhặt phế liệu để bán lấy tiền. Hoặc khi vào vụ gặt, tôi giúp việc nhà, lâu lâu được mẹ giúi cho vài chục đồng, gọi là… tiền công. Tất tật số tiền ít ỏi có được ấy, tôi đem “đầu tư” vào sách.

Lựa chọn

Lựa chọn

Chiếc xe khách 16 chỗ dừng lại trước một con đường nhỏ chạy giữa những liếp cam xanh mướt mắt. Tôi xuống xe, vẫn còn ngờ ngợ liệu mình có đến đúng chỗ không, dù bác lơ xe có tuổi đã bảo đảm đây chính xác là địa chỉ tôi đưa, còn tôi không có lý do gì để không tin bác ta cả.