Chuyên gia kinh tế:Trong làm ăn với đối tác TQ,đừng đặt cảm xúc lên đầu!

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành nói: Việt Nam – Trung Quốc có mối quan hệ kinh tế rất sâu sắc. “Nhiều nhiều nghìn doanh nghiệp Việt Nam đang gắn với thị trường Trung Quốc. Khi làm ăn với bất kỳ đối tác nào, cũng cần phải có cái đầu “lạnh”, tỉnh táo”, chuyên gia này nhận xét. 
 
Trước ý kiến cho rằng, chiến tranh thương mại sẽ giúp Việt Nam có thêm động lực để đa dạng kinh tế, bớt phụ thuộc vào Trung Quốc, ông Võ Trí Thành cho rằng cần nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn.
Doanh nghiệp cần hơn cái “đầu lạnh”, tỉnh táo
Trao đổi với Dân trí, TS. Võ Trí Thành, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nhận định: Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung không chỉ tác động đến nền kinh tế của hai nước mà tác động đến các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là những nước có độ mở kinh tế cao như Việt Nam. Đặc biệt, Trung Quốc, Mỹ đều là những đối tác quan trọng bậc nhất trong làm ăn kinh tế của Việt Nam.
Về dài hạn, nếu cuộc chiến này tiếp tục leo thang, thì theo ông Thành, dẫn đến suy giảm mạnh tăng trưởng toàn cầu, và thương mại sẽ chịu tác động tiêu cực nhiều hơn. Dự báo của nhiều tổ chức quốc tế vừa qua đều hạ tốc độ tăng trưởng kinh tế và thương mại thế giới năm 2019 và 2020. Một lý do chủ yếu là cuôc chiến thương mại Mỹ- Trung. Từ đó ảnh hưởng đến cả xuất khẩu vốn là một động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Mặc dù vậy nhưng ông Thành cho rằng: Việt Nam cần phải bình tĩnh để tận dụng mọi cơ hội bởi vì cuộc chiến này cũng mang lại những tác động tích cực từ việc dịch chuyển về đầu tư, thương mại. Những con số về xuất khẩu một số lĩnh vực và thu hút FDI trong sáu tháng dầu năm 2019 phản ánh điều đó.
Trước ý kiến cho rằng, chiến tranh thương mại sẽ giúp Việt Nam có thêm động lực để đa dạng kinh tế, bớt phụ thuộc vào Trung Quốc, ông Thành cho rằng cần nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn. Ông cũng chia sẻ thêm: “Tôi không thích dùng từ ‘phụ thuộc’. Thế giới đang tùy thuộc lẫn nhau. Và nếu đơn thuần là câu chuyện làm ăn kinh tế thì quan hệ thương mại nhiều với một thị trường chưa hẳn là điều gì bất thường”.
Trong môi trường mở với thế giới bên ngoài (phần quan trọng được xác định bởi các cam kết quốc tế như các hiệp đinh thương mại tự do), doanh nghiệp họ có quyền lựa chọn, chủ động trong việc hợp tác với ai, chọn thị trường nào. “Chính họ là người hiểu họ cần gì, làm ăn được với ai và làm như thế nào để có được lợi ích tối đa”, ông Thành nói và cho biết không thích lấy sự “yêu, ghét” một cách cảm tính để áp vào các mối quan hệ thương mại, đầu tư.
Ông Thành nói: Việt Nam – Trung Quốc có mối quan hệ kinh tế rất sâu sắc. “Nhiều nhiều nghìn doanh nghiệp Việt Nam đang gắn với thị trường Trung Quốc. Khi làm ăn với bất kỳ đối tác nào, cũng cần phải có cái đầu “lạnh”, tỉnh táo. Bảo “ghét” ai nên không hợp tác, không làm ăn với người đó là chưa ổn. Làm việc phải bằng cái đầu, bằng tư duy chứ không chỉ bằng cảm xúc”, ông Thành nhấn mạnh thêm: Trung Quốc là một thị trường lớn. Nếu đơn thuần về kinh tế thì doanh nghiệp nào cũng muốn hướng tới thị trường lớn cả tỷ dân này.
Mặc dù vậy song theo ông Thành, một nền kinh tế muốn phát triển tốt thì cần có sự cân bằng và đa đạng hoá. Khi đa dạng hoá được thị trường, mở rộng được nhiều đối tác thì càng có nhiều cơ hội và sự lựa chọn thích hợp để tối đa hóa lợi ích. Cùng với đó mới giảm thiểu được rủi ro từ các yếu tố liên quan đến thị trường, tỷ giá, dòng chảy tài chính và cả địa - chính trị…. Cách thức hội nhập và ký kết nhiều FTA của Việt Nam chính là để đạt các mục tiêu như vậy.
Vị chuyên gia cũng cho rằng với mỗi đối tác sẽ có những đặc điểm khác nhau. Bài toán đặt ra ở đây cho các doanh nghiệp là họ phải biết mình muốn gì, tính toán được lợi ích cũng như lường được các rủi ro. “Có như vậy mới tối ưu hoá cuộc chơi, lợi nhuận được”, ông Thành nói thêm.
Ông Thành khẳng định, hội nhập, mở cửa là con đường không thể khác nếu muốn phát triển. “Bất kỳ cuộc chơi nào cũng có rủi ro, nhưng anh muốn tiến nhanh, tiến mạnh thì phải chấp nhận. Quan trọng là cách anh làm, cách anh đưa ra chiến lược”, ông Thành nói.
Thâm hụt thương mại với Trung Quốc, có đáng sợ?
TS. Võ Trí Thành cho biết, người ta hay nhắc tới từ “phụ thuộc” khi đề cập tới thâm hụt thương mại rất lớn của Việt Nam với Trung Quốc. Tuy nhiên theo ông Thành, nhìn tổng thể xu thế thâm hụt đang có phần giảm dần, có những thời điểm Hàn Quốc vượt qua Trung Quốc thành thị trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam.
Nhìn vào cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc, ông Thành cho biết có 3 nhóm quan trọng, bao gồm: Nhóm hàng tiêu dùng; nhóm hàng trung gian (như phụ tùng, linh kiện,..) và nhóm hàng vốn (thiết bị, máy móc).
Về nhóm hàng tiêu dùng, ông Thành cho biết nếu chỉ tính chính ngạch ( hiện chúng ta vẫn chưa có thống kê số liệu đầy đủ về xuất khẩu qua tiểu ngạch, buôn lậu) thì Việt Nam không phải nhập siêu đáng kể từ Trung Quốc. Cũng trong nhóm hàng này, sự cạnh tranh từ các sản phẩm hàng hoá của Việt Nam cũng đã tăng lên rất nhiều.
“Tôi chỉ lấy một ví dụ nhỏ, trước kia chúng ta mặc rất nhiều quần hàng “made in China”, đâu đâu cũng toàn quần áo Trung Quốc, nhưng giờ người ta chuộng quần áo Việt Nam hơn nhiều”, ông Thành nói.
Nhóm thứ 2 là mặt hàng trung gian đầu vào. Theo ông Thành, đây là nhóm mà Việt Nam nhập siêu nhiều nhất. “Các mặt hàng này VN nhập về để làm xuất khẩu hoặc tạo sản phẩm bán trong nước; các doanh nghiệp FDI cũng nhập khẩu rất nhiều mặt hàng này”. VIệc nhập khẩu chỉ để tạo sản phẩm bán trong nước gây thâm hụt thương mại lớn. Ngay để tạo sản phẩm xuất khẩu thì giá trị gia tăng cũng không cao, ông Thành cho biết.
Nhóm thứ 3 là nhóm hàng thiết bị máy móc. Ông Thành cho biết, nhóm hàng này được doanh nghiệp Việt Nam nhập cũng rất nhiều. Đa phần các mặt hàng này có giá thành rẻ và vẫn được thị trường chấp nhận, phục vụ gia công, chế biến. Bên cạnh đó, chúng cũng theo đầu tư vào (đầu tư FDI từ Trung Quốc hoặc là các dự án Trung Quốc thắng thầu).
Rõ ràng với năng lực chế tạo máy móc, thiết bị còn hạn chế thì đây là nhóm hàng Việt Nam còn nhập siêu lớn, và không chỉ với Trung Quốc. Vấn đề là đầu tư phải gắn với phát triển bền vững; hiệu quả phải nhìn nhận cho cả vòng đời dụ án, tính tới cả tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng.
Muốn cân bằng hơn trong cán cân thương mại, và lớn hơn là câu chuyện phát triển bền vững, hiệu quả lâu dài, ông Thành chia sẻ có 4 yếu tố cần làm tốt, đó là: nâng cao khả năng cạnh tranh doanh nghiệp và sản phẩm; phát triển công nghiệp hỗ trợ; đa dạng hoá thị trường gắn với thu hút đầu tư chiến lược, thật sự chú trọng chất lượng FDI; và thực hiện tốt chính sách đấu thầu...
Nguyễn Khánh (Dân trí)

Có thể bạn quan tâm

Dây chuyền sản xuất nước giải khát từ thảo dược của Công ty TNHH Phát triển Khoa học Quốc tế Trường Sinh (Khu công nghiệp Trà Đa, phường Pleiku). Ảnh: Hà Duy

Gia Lai: "Cú hích" mới cho kinh tế tư nhân bứt phá

(GLO)- Khu vực kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò trụ cột trong tăng trưởng của tỉnh Gia Lai. Với đóng góp hơn 80% GRDP, gần 23% tổng thu ngân sách và tạo việc làm cho 94% lao động toàn tỉnh, khu vực này đã chứng minh năng lực dẫn dắt nhiều lĩnh vực phát triển.

Tạo đột phá thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp

Tạo đột phá thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp

(GLO)- Xác định công nghiệp là 1 trong 3 trụ cột tăng trưởng của nền kinh tế, tỉnh Gia Lai đang tập trung tháo gỡ những vướng mắc, điểm nghẽn về hạ tầng, đất đai và thủ tục đầu tư, hướng đến tạo đột phá mới trong thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp.

Giá heo hơi ngày 14-10 giảm nhẹ ở một số địa phương. Ảnh: Internet

Giá heo hơi ngày 14-10 giảm nhẹ

(GLO)- Ngày 14-10, giá heo hơi trong nước tiếp tục giảm 1.000 đồng/kg ở một số địa phương khu vực miền Trung-Tây Nguyên và miền Nam. Trong khi đó, tại miền Bắc, mặt hàng này ổn định giá so với hôm qua.

Ông Thái Như Hiệp-Tổng Giám đốc Công ty TNHH Vĩnh Hiệp nhận Giải thưởng Doanh nhân xuất sắc châu Á-Thái Bình Dương. Ảnh: DNCC

Khát vọng xây dựng thương hiệu giá trị

(GLO)- Những năm qua, cộng đồng doanh nghiệp (DN) tỉnh Gia Lai luôn nỗ lực phát triển với khát vọng xây dựng những thương hiệu thật, giá trị thật, coi đó không chỉ là đích đến về lợi nhuận, mà còn là lời cam kết về niềm tin, trách nhiệm xã hội.

Chứng chỉ VFCS/PEFC giúp sản phẩm từ rừng của Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn có giá trị kinh tế cao khi tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước. Ảnh: N.N

Phó Giám đốc VFCO Nguyễn Hoàng Tiệp: Chứng chỉ rừng đảm bảo lợi ích cho người trồng và doanh nghiệp

(GLO)- Chứng chỉ rừng giúp nâng giá trị gỗ, hỗ trợ kỹ thuật cho người trồng và tạo nguồn nguyên liệu đạt chuẩn cho doanh nghiệp. Xung quanh vấn đề này, P.V Báo và phát thanh, truyền hình Gia Lai đã trao đổi với TS. Nguyễn Hoàng Tiệp-Phó Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (VFCO).

Nghề nuôi cá lồng bè trên sông Sê San đã tạo nên diện mạo mới cho vùng sông nước phía Tây Gia Lai.

"Xanh hóa" sinh kế vùng sông nước

(GLO)- Nghề nuôi cá lồng bè đang mang lại sinh khí mới cho vùng sông nước phía Tây Gia Lai, giúp khai thác hiệu quả tiềm năng mặt nước, thúc đẩy nông nghiệp xanh và hình thành thương hiệu “cá sạch Tây Gia Lai”. Đây được xem là hướng phát triển bền vững, tạo sinh kế cho nhiều người dân địa phương.

Vĩnh Hiệp Gia Lai vinh dự nhận “cú đúp” giải thưởng Doanh nghiệp xuất sắc châu Á và Doanh nhân xuất sắc châu Á.

Vĩnh Hiệp Gia Lai đạt "cú đúp" giải thưởng tại APEA 2025

(GLO)- Mới đây, tại TP. Hồ Chí Minh, Công ty TNHH Vĩnh Hiệp (tỉnh Gia Lai) và ông Thái Như Hiệp-Chủ tịch Hội đồng Thành viên kiêm Tổng Giám đốc Công ty được vinh danh tại Asia Pacific Enterprise Awards (APEA) 2025 với “cú đúp” giải thưởng Doanh nghiệp xuất sắc châu Á và Doanh nhân xuất sắc châu Á.

Năng lượng tái tạo là lĩnh vực tiềm năng của tỉnh Gia Lai, đóng góp lớn vào sản lượng điện của quốc gia. Ảnh: Vũ Thảo

Nền tảng cho công thương nghiệp Gia Lai bứt phá

(GLO)- Sự kết hợp giữa lợi thế của cao nguyên đất đỏ bazan và tiềm năng vùng ven biển đang mở ra cơ hội để Gia Lai vươn lên trở thành cực tăng trưởng mới của miền Trung-Tây Nguyên, nhất là trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến, xuất khẩu và logistics.

null