(GLO)- Nắng như đổ lửa, cảm giác thứ gì cũng đang bốc khói. Chỉ những vườn rau xanh mát nối tiếp, những bàu nước là đem lại cảm giác mát lành, dễ chịu nơi vùng đất ven sông Ba lam lũ nhưng yên ả, thanh bình.
Vùng rau mùa hạn
Tiếp chuyện một chốc, ông Lê Nhẫn (phường An Bình, thị xã An Khê, Gia Lai) đã lại vội vã đi tưới rau, chỉ còn vợ ông tiếp tục trò chuyện với khách. “Nắng quá, ngày tưới 2 lần, bây giờ đến lượt”-ông Nhẫn thật tình khất bận. Chú em tên Quốc tầm ngoài 30 tuổi và một người khác tên Ba giữa trưa nắng cháy cũng tay cầm vòi sen đấu với ống dẫn hối hả tưới nước cho rau. “Hôm nay, nắng gắt phải tưới một giờ cho 2 sào, ngày tưới 2 lần, ngày mát thì tưới ít hơn”-Quốc nói.
“Bàu Rộc Bảy bình thường rộng 2 ha nhưng hiện tại cạn đến mấy phần, lơ quơ mặt nước chưa tới vài sào”-Chủ tịch Hội Nông dân phường An Bình Nguyễn Văn Vinh nói. Hết nước mới xảy ra tranh chấp giữa ông Sơn và ông Tấn cùng xóm. Ông Sơn được phường cho thuê quản lý mặt nước bàu phục vụ tưới kết hợp nuôi cá. Bình thường thì chẳng có gì nhưng nay bàu cạn trơ đáy, khi ông Tấn bơm nước cho ruộng lúa thì ông Sơn không cho với lý do hết nước cá không sống nổi.
Nông dân phường An Bình (thị xã An Khê) thu hoạch rau. Ảnh: T.S |
Có mặt ở phường An Bình những ngày này, chúng tôi chứng kiến không ít bàu đập cạn kiệt: bàu Rộc Bảy, bàu Cây Năm, bàu Keo, bàu Khô... Nhiều ao hồ khoét sâu 4-5 m để lấy nước tưới nhưng cũng chẳng nhiều nhặn gì. Nhìn xuống giếng, Quốc cho biết còn chừng 2 m nước, rồi than: “Nhiều khi tưới không đủ, phải chờ nước ra để tưới tiếp, vừa mất công lại vừa mất thời gian”.
Khổ vì khô hạn là một nhẽ, sâu bệnh hại cũng làm mất mùa, rau củ mất giá khiến nhà nông thêm điêu đứng, nhất là 2 năm nay. Trước đây có năm giá hành lá lên đến mấy chục ngàn đồng mỗi ký, ớt có vụ đến cả 80-100 ngàn đồng/kg (do bị chết nhiều bởi lũ lụt)… Vụ rồi, cải triều (cải trầu, loại cải lớn, lá to) ế chỏng chơ, phải nhổ quăng, cày bỏ hay phun thuốc cho chết để lấy đất làm vụ mới. “400 đồng/kg đại lý trên An Sơn (huyện Đak Pơ) cũng không cắt, không biết tiêu thụ đi đâu. Đau lòng lắm chú ơi, vì diện tích rau xanh phường An Bình rất lớn, phải 95% số hộ trồng rau”-vợ ông Lê Nhẫn kể mà như than thở.
Còn bệnh trên cây rau bây giờ xuất hiện thường xuyên, nhiều nhất là rầy, nấm lá, móc cua, sâu đục thân, bọ trĩ, vàng lá, rầy con ké... Sợ nhất là bệnh thúi nũng, chỉ còn cách nhổ bỏ. Muốn canh tác trở lại phải tốn kém cày ải, dùng vôi, thuốc “sâu tím” trộn với “cát biển” trị tuyến trùng rễ mới xử lý triệt để mầm bệnh...
Yêu thương, cần cù
Hình ảnh lão nông Trương Văn Thinh ngả mình trên chiếc võng mắc vào hai cây xoài trước nhà, mắt lim dim bỗng trở nên thanh bình, gần gũi lạ thường. Nghề nông là cái nghề “liền tay liền chân” nhưng người gắn bó, chăm chút yêu thương thì luôn được đền đáp ân tình. Nhiều gia đình ở phường An Bình có đến mấy thế hệ trồng rau và đều có cuộc sống tương đối ổn định. Những lão nông: Lê Nhẫn, Lê Nhị, Nguyễn Thái Khâm, Lê Cúc, Bùi Văn Lộc, Võ Hương, Võ Văn Niên... nổi tiếng trồng rau, đi lên từ rau. 7 đứa con của ông Lê Nhẫn đều trồng rau mà sống. Anh con trai Lê Thành Tân năm nay 46 tuổi sống cùng cha mẹ cũng đang là “tay” trồng rau có tiếng. Người trẻ như Quốc, Sơn cũng chọn làm rau để mưu sinh. Lam lũ vất vả vậy mà ông Thinh nuôi 9 người con ăn học nên người; cả khi hơn 10 năm nay, vợ bị bạo bệnh bỏ ông ra đi.
Là cây trồng ngắn ngày một năm có thể làm nhiều vụ, rủi ro mất mùa, xuống giá nhưng chưa bao giờ thiệt hại ấy làm nản lòng người dân nơi đây. So với nhiều cây trồng khác, làm rau vốn đầu tư không đáng kể. Theo ông Thinh, mỗi năm trừ chi phí, gia đình ông cũng có “của ăn của để”. Tiến bộ khoa học kỹ thuật giúp người trồng rau không phải chật vật, lo lắng vì vật tư. Mọi thứ đều chủ động, có công ty, đại lý uy tín trên địa bàn cung ứng. Làm rau đem lại thu nhập chính, trở thành tập quán sản xuất ổn định, là cơ sở để quy hoạch vùng chuyên canh rau xanh của chính quyền địa phương.
Theo ông Nguyễn Văn Vinh, diện tích trồng rau xanh của phường An Bình là 525 ha trên tổng diện tích sản xuất nông nghiệp hơn 700 ha, năng suất bình quân 24 tấn/ha, sản lượng hàng năm đạt hơn 12.000 tấn, tiêu thụ khắp các tỉnh thành Kon Tum, Đà Nẵng, Huế... Để nâng cao chất lượng sản phẩm và tìm đầu ra ổn định, cùng với tuyên truyền, tập huấn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất rau, Hợp tác xã Nông nghiệp và Dịch vụ An Bình cũng đã ra đời cách đây vài năm với 107 thành viên, sản xuất 31 loại rau trên diện tích 27 ha theo tiêu chuẩn VietGAP. Chủ nhiệm Hợp tác xã-bà Nguyễn Thị Thu-cho biết, đơn vị đã ký hợp đồng với một công ty để tiêu thụ rau cho các thành viên. Tuy nhiên, mô hình hợp tác xã mới chỉ là bước đầu, còn việc hình thành chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ thuận lợi cho cả vùng rau vẫn là bài toán mất nhiều thời gian để giải đáp.
Trong khi chờ đợi “cứu cánh”, người trồng rau An Bình chỉ còn cách “tự thân vận động”. Ông Nhẫn hôm trước phải tất bật tìm người thu hoạch 2 sào hành. 8 con người từ 5 giờ chiều hôm trước đến 2 giờ sáng hôm sau mới làm xong. Hành từ 2.000 đồng/kg không đủ chi phí thu hoạch thì mấy ngày nay lên trên 10.000 đồng/kg nên phải tranh thủ. Khi đảo qua bàu Lở-bàu lớn nhất ở An Bình, chúng tôi cũng thấy mấy chị che khẩu trang kín mặt đang thu hoạch cải ngọt. Người cắt, người gom, người đẩy xe cút kít, người dồn vào bao, ai cũng thoăn thoắt, khẩn trương.
“Nếu trời thương thì người trồng rau hoàn toàn sống được, dẫu có vất vả”-lời ông Thinh khiến tôi bất ngờ nhận ra triết lý sống lạc quan, thuần phác nhưng vô cùng sâu sắc của con người lao động. “Chú thấy quanh đây có chỗ nào đất đai hoang hóa không?”-câu hỏi mà như khẳng định của ông Đinh Trọng Hinh, Tổ trưởng tổ dân phố 2, đã nhấn mạnh sinh kế ổn định của những phận đời “sống chậm” làm rau.
Nằm sát quốc lộ 19 ồn ã, gấp gáp nhưng An Bình thật hiền hòa. Chợt liên tưởng và nhận ra tên gọi An Bình thật ý nghĩa. Nơi ấy có những con người bình dị, cần cù, yêu lao động và chưa lúc nào thôi lạc quan, vui sống.
THẤT SƠN