Thương nhau chia củ sắn lùi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Cây mì, củ mì (còn gọi là sắn) có mặt ở Tây Nguyên một cách đại trà là vào nửa sau thế kỷ XX để làm một thứ “quân lương” độc đáo trong thời đánh Mỹ.

Lịch sử cây mì “lên Tây Nguyên” đã vào cả nghị quyết, khi Liên khu V chủ trương đưa cây mì từ miền xuôi lên để giải quyết tình trạng khan hiếm gạo. Tỉnh Gia-Kon (Gia Lai-Kon Tum cũ) cũng vậy (lược trích): “Đặc biệt, tỉnh chủ trương đưa cây sắn (mì) từ đồng bằng Trung bộ lên (…) vào vị trí lương thực chiến lược. Cây mì được trồng khắp các nơi, ở khắp các vùng trong tỉnh, vươn ra tận đường 14, trở thành những rừng mì, núi mì kháng chiến. Và chính nhờ cây mì ta có được nguồn lương thực dự trữ lâu dài, phục vụ và chủ động mở các chiến dịch lớn giành thắng lợi”.

 

Mì (sắn) là một trong những loại lương thực quan trọng trong kháng chiến. Ảnh: internet
Mì (sắn) là một trong những loại lương thực quan trọng trong kháng chiến. Ảnh: internet

Trong hồi ký Như núi như sông, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân A Tranh kể: “Một lần anh Xuân đi công tác về cho tôi một gùi những khúc cây to hơn ngón tay cái có nhiều mắt và mấy củ chừng bằng cổ tay con nít. Anh bảo đây là cây sắn, có nơi gọi là cây mì. Các anh bộ đội của anh Kiên hành quân từ dưới xuôi lên, mỗi người cõng theo 30 cây lên trồng và tặng đồng bào (…).

Thế là bà con tiến hành trồng mì: “Rồi ai cũng nói phải kiếm thêm cây giống. Vượt sự bao vây kiểm soát của địch, vượt núi rừng mà đi thôi! Các anh bộ đội đã cõng từ xuôi lên thì mình phải đi lấy về mà trồng chớ!…”.

Thực ra, mì đã có mặt ở Tây Nguyên từ trước lâu, với tên gọi bum blang (Bahnar) hay pum loăng (Xê Đăng). Cụ thể, đến ngày nay món lá mì muối chua hoặc giã nhỏ nấu canh đã thành món ăn truyền thống, “đặc sản” của bà con Tây Nguyên. Ấy là loại mì “gòn”, cây cao lá thưa, củ bùi, bở. Tuy nhiên lúc ấy còn đất tốt, người thưa, các nông-lâm-thổ sản khác dư sức nuôi người, cây mì chưa thiết đến. Chỉ đến thời kháng chiến, đường tiếp tế lương thực khó khăn, trong “cái khó ló cái khôn”, lãnh đạo Khu V mới có quyết sách tuyệt chiêu ấy.

Cách gây dựng những “kho dự trữ lương thực mì” cũng rất độc đáo, sáng tạo. Trong hồi ký “Tự truyện đời tôi”, ông Nguyễn Tập-nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum giai đoạn 1965-1971 (lúc này tỉnh Gia-Kon đã tách riêng), viết: “… đưa cây mì thành cây chiến lược, trồng ở khắp nơi, từ những mảnh đất ven nhà, nương rẫy, triền đồi, bờ sông (…). Nhờ vậy, từ năm 1961 về sau ở Kon Tum bạt ngàn là mì, mì của nhân dân, mì của cán bộ các cơ quan, mì của bộ đội. Có các rẫy mì mang tên “Mì đoàn kết”, “Mì cứu đói”, “Mì thống nhất”, “Mì đánh Mỹ”…”.

Điều này cũng được Anh hùng A Tranh kể: “Chúng tôi quy định, cứ đào bụi mì ăn thì chặt hom cắm xuống ngay. Như vậy đào một bụi mì thì có 5 đến 6 bụi mì mới. Chính vì vậy… mì từ vụ này để qua vụ khác, hễ bộ đội, dân công đi qua thì cứ nhổ nướng ăn. Chúng tôi gọi là rẫy mì cách mạng”.

Trong hồi ký “Trọn một con đường”, Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên-nguyên Tư lệnh Đoàn 559-Bộ đội Trường Sơn cũng viết: “… Đặc biệt là sắn rất sẵn, nhờ chủ trương “ăn củ trả cây” (…). Sắn là “sâm Trường Sơn, mà “sâm Trường Sơn” không bao giờ thiếu…”. Loại “sâm Trường Sơn” đặc biệt này đã phát huy tác dụng một cách thiết thực, hữu hiệu. Hồi ký “Thời sôi động” của Đại tướng Chu Huy Mân-nguyên Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3), viết: “Sau 6 tháng, bộ đội đã trồng trên 30 triệu gốc sắn (…). Vào mùa đông năm 1966, các đơn vị tại chỗ cũng như lực lượng hành quân từ ngoài Bắc qua căn cứ Tây Nguyên, tuy gạo còn thiếu nhưng sắn thì đủ no”.

Thấy sự lợi hại của loài cây chiến lược này, Mỹ ra sức phá hoại, triệt tiêu, nhưng không phá được. Anh hùng A Tranh viết: “Những cánh rừng xanh ngút sau một ngày địch thả chất độc hóa học là trở màu đỏ và rụng hết lá, chỉ còn thân trơ trọi, cao vút … Củ mì cũng phình to, không ai dám ăn”.

Những rẫy mì “huyền thoại” không những đi vào ký ức bao người, mà còn là nguồn cảm hứng cho văn chương nghệ thuật. Hồi ký “Ký ức Tây Nguyên” của Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp-nguyên Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3), ngoài nhiều đoạn dài viết kỹ về những rẫy mì, còn chép lại nguyên văn bài thơ “Sắn” ở rừng Trường Sơn: “Bọn tôi tới những nơi tưởng không có hơi người/Thì rẫy sắn lại hiện ra xòe lá vẫy/Sắn, rồi sắn… cứ biếc lên như vậy/Khắp một vùng lũng hẹp, dốc cao/Như là sắn của trời cho, muốn dỡ, có sao đâu/Dỡ để luộc, dỡ để gùi… được tất/Một trung đoàn ư? Một sư đoàn ư? Thả sức/Đây nồi-sắn-Thạch-Sanh mà, không thể hết, đừng lo/Vào đây lần đầu, xin bạn nhớ cho/Có thói quen của đồng đội đi trước ta để lại/Dỡ một gốc hãy trồng thêm mấy gốc/Gặp bom phạt cây nào, chặt cành gãy trồng thay/…/Nhớ các chị, các anh tới phát rẫy năm nào/Dưới mỗi gốc: máu, mồ hôi thấm đọng/Tình đồng chí ngấm bùi hương vị sắn/Đường đi lá biếc xôn xao…”.

Mãi sau này, những người lính Trường Sơn năm xưa vẫn còn nguyên hình ảnh những rẫy mì trong ký ức được thể hiện qua rất nhiều thơ văn, hồi ký.

Ngày nay, cây mì đã là cây hàng hóa. Nhiều giống mì cao sản được phát triển để tăng năng suất. Hàng năm, mì được trồng đại trà khắp chốn. Nương rẫy Tây Nguyên đâu đâu cũng xanh ngút ngát một màu mì. Tuy nhiên, cây mì “gòn” phục vụ cho việc “ăn tại chỗ” những năm kháng chiến xưa, nay đã lui vào hàng thứ yếu (vì năng suất thấp), chỉ còn được trồng một ít nơi góc rẫy, xó vườn, thậm chí bên… lề phố, để… ăn chơi.

Ở các đô thị Tây Nguyên ngày nay rất dễ gặp các mẹ, các chị người dân tộc thiểu số đi dạo hoặc ngồi bên hè phố bán dăm mớ mì gòn. Ai đã quá ngán ngẩm cao lương mỹ vị thì dừng xe mua vài củ về nấu ăn chơi cho… lạ miệng! Thi thoảng bắt gặp những chiếc xe đạp 3 bánh tự chế đạp lòng vòng khắp các ngả phố rao bán củ mì nấu sẵn; nhìn những thỏi mì trắng tinh, tơi bở, nóng hôi hổi bốc khói thơm nghi ngút, đã… bắt thèm! Hoặc ở những góc ngã ba ngã tư đông người qua lại, các chị các cô ngồi quạt lửa nướng những khúc mì gòn, những củ khoai lang, những trái bắp nếp; cái mùi vị “quê mùa”, dân dã ấy cứ loang ra trong không khí, như vấn vương khắp đất trời, thơm đến nao lòng, gợi nhớ về ý thơ Tố Hữu:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng...
Ôi, sao mà thương, mà da diết…

Tạ Văn Sĩ

Có thể bạn quan tâm

An Hòa chuyển mình trong xây dựng nông thôn mới

An Hòa: Điểm sáng trong xây dựng nông thôn mới

(GLO) - Ông Trần Ngọc Cát - Trưởng thôn An Hòa (xã Tuy Phước Bắc) cho biết: Đầu năm 2023, khi còn thuộc xã Phước Quang (huyện Tuy Phước cũ), An Hòa được chọn làm điểm xây dựng thôn thông minh - một tiêu chí quan trọng để xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.

Cải thiện chỉ số cải cách hành chính

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Gia Lai cải thiện chỉ số cải cách hành chính

(GLO)- Trong bối cảnh Gia Lai đẩy mạnh cải cách hành chính (CCHC) và chuyển đổi số, đặc biệt ghi dấu bằng việc cải thiện thứ hạng Chỉ số phục vụ người dân, DN (Chỉ số 766), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả phục vụ.

Ðổi thay trên đất cách mạng Bàu Cạn

Ðổi thay trên quê hương cách mạng Bàu Cạn

(GLO)- Từ cái nôi của phong trào cách mạng tỉnh Gia Lai (cũ), xã Bàu Cạn đã trải qua hành trình chuyển mình mạnh mẽ. Những đồi chè từng in dấu chân bao chiến sĩ cách mạng năm xưa, giờ được tô đậm thêm sắc xanh bởi vườn cà phê, cây ăn quả… trở thành biểu trưng của sự ấm no, sung túc.

Chuyện về người kết nạp tôi vào Đảng

Chuyện về người kết nạp tôi vào Đảng

(GLO)- “Cứ đưa nó vào danh sách cảm tình Đảng”. Ấy là lời của anh Lê Thanh Hiển (nguyên Phó Bí thư Thường trực Thị ủy An Khê) trong cuộc họp Chi ủy Văn phòng K.8 (An Khê), khi họ đặt vấn đề giới thiệu tôi vào Đảng sau khi phát hiện chưa đủ tròn 18 tuổi.

Lung linh làng hoa cúc Kiên Long sau bão lũ

Lung linh làng hoa cúc Kiên Long sau bão lũ

(GLO)- Khi màn đêm buông xuống, thôn Kiên Long (xã Bình An, tỉnh Gia Lai) lại bừng sáng bởi hàng ngàn bóng đèn được thắp lên giữa các vườn hoa cúc. Ngắm từ xa, cả cánh đồng cúc như một dải ngân hà nhỏ giữa vùng quê yên ả, vừa lung linh vừa ấm áp trong những ngày cuối năm se lạnh.

Chư Păh chung sức xây dựng nông thôn mới bền vững

Chư Păh chung sức xây dựng nông thôn mới

(GLO)- Những năm qua, xã Chư Păh đã huy động sức dân cùng nguồn lực đầu tư của Nhà nước để xây dựng nông thôn mới. Nhờ đó, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao, hạ tầng nông thôn và sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.

Xã An Lương tổ chức các chuyến xe lưu động cấp nước sinh hoạt cho người dân.

Xã An Lương tổ chức chuyến xe lưu động cấp nước sinh hoạt cho người dân

(GLO)- Cùng với hỗ trợ sửa chữa công trình bị hư hại, vệ sinh môi trường sau bão số 13 (Kalmaegi), những ngày này, xã An Lương (tỉnh Gia Lai) đã tổ chức các chuyến xe lưu động cung cấp nước sinh hoạt cho người dân nhằm khắc phục khó khăn trước mắt, đảm bảo điều kiện sinh hoạt.

Khởi sắc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Khởi sắc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở Gia Lai

(GLO)- Những năm qua, cấp ủy, chính quyền các địa phương trong tỉnh đã triển khai hiệu quả các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025. Nhờ đó, diện mạo nông thôn miền núi có nhiều khởi sắc, đời sống người dân được cải thiện đáng kể.

 Một góc làng Canh Tiến thanh bình.

Khát vọng du lịch cộng đồng ở làng Canh Tiến

(GLO)-Nằm nép mình bên Hồ Núi Một thẳm xanh, làng Canh Tiến (xã Canh Vinh) được thiên nhiên ưu đãi với cảnh quan nguyên sơ, hùng vĩ, nên thơ. Người dân nơi đây đang ấp ủ khát vọng biến quê hương thành điểm đến du lịch cộng đồng, vừa gìn giữ bản sắc văn hóa, vừa tạo sinh kế bền vững.

Thông qua việc đặt “bẫy ảnh”, Vườn quốc gia Kon Ka Kinh ghi nhận nhiều loài động vật hoang dã quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam và thế giới.

Bẫy ảnh hé lộ kho báu sinh học ở Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh

(GLO)-Không chỉ ghi nhận hình ảnh tê tê vàng và tê tê Java-2 loài thú cực kỳ nguy cấp, những tấm ảnh chụp từ hệ thống bẫy tự động tại Vườn quốc gia Kon Ka Kinh (xã Mang Yang, tỉnh Gia Lai) còn phát hiện nhiều loài động vật quý hiếm khác, góp phần khẳng định giá trị đặc biệt của hệ sinh thái nơi đây.

null