Ô tô Việt "chăm mãi không lớn":Bộ Công Thương và Toyota đồng thanh lên tiếng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Phân tích khá nhiều nguyên nhân khiến sau hơn 20 năm có chính sách ưu đãi, nhưng đến nay Việt Nam không hề có dòng xe du lịch đạt tỷ lệ nội địa hoá 40% để hưởng mức thuế xuất 0% ra các nước ASEAN, chuyên gia Bộ Công Thương và liên doanh ô tô số 1 Việt Nam - Toyota vẫn đưa ra những cái cũ và xin Chính phủ ưu ái.
Tại Hội thảo "Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô, tác động chính sách, rào cản và giải pháp" do Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức sáng nay (30/10), nhiều ý kiến mong muốn mổ xẻ vấn đề tồn tại của ngành ô tô song câu chuyện vẫn dừng lại ở "bổn cũ, chép lại".
Vẫn chỉ là con số ám ảnh
Báo cáo của Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương chỉ rõ: “Đầu tư cho sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô còn mang tính nhỏ lẻ, sản phẩm làm ra ít cả về chủng loại và sản lượng. Sức cạnh tranh quốc tế của công nghệ hỗ trợ (CNHT) ngành sản xuất, lắp ráp ô tô còn hạn chế, nhất là sản phẩm của DN nội địa”.
Tỷ lệ nội địa hoá của ô tô liên doanh vẫn dậm chân tại chỗ, không vượt quá 40%, điều kiện được hưởng thuế xuất 0% vào các thị trường ASEAN.
Tỷ lệ nội địa hoá của ô tô liên doanh vẫn dậm chân tại chỗ, không vượt quá 40%, điều kiện được hưởng thuế xuất 0% vào các thị trường ASEAN.
Ông Lương Đức Toàn, Cục Công Nghiệp ( Bộ Công Thương) cho biết, theo tính toán của Bộ Công Thương đến nay cả nước có 358 DN sản xuất liên quan đến ô tô, trong đó có 50 DN lắp ráp ô tô, 45 DN sản xuất khung gầm, thân xe và thùng xe, 214 DN sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô…
"Số lượng trên thấp hơn rất nhiều so với 385 DN ở Malaysia và 2500 DN ở Thái Lan về sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô", đại diện Bộ Công Thương nói.
Theo ông Toàn, đối với các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hoá cao, đáp ứng về cơ bản cụ thể, xe tải 7 tấn đã đáp ứng khoảng 70% nhu cầu với tỷ lệ nội địa hoá trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, một số loại xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu tỷ lệ nội địa hoá đạt từ 45-55%.
Về sản xuất phụ tùng, một số phụ tùng linh kiện đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đạt thấp, đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó Thaco đạt 15-18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova, thấp hơn mục tiêu đề ra.
Đại diện Cục Công nghiệp cho hay, hiện phần lớn phụ tùng và linh kiện đều phải nhập khẩu. Năm 2014 nhập khẩu 2,2 tỷ USD; năm 2015 nhập khẩu 3 tỷ USD, năm 2016 nhập khẩu 3,5 tỷ USD và năm 2017 nhập khẩu 3,167 tỷ USD.
Trong khi đó, tỷ lệ mua phụ tùng trong nước tuỳ theo chủng loại xe và nhà sản xuất đạt 10-30% đối với xe du lịch; hơn 30% đối vơi xe tải và hơn 40% đối với xe buýt.
"Phụ tùng, linh kiện chủ yếu được sản xuất và nhập khẩu từ DN FDI, tỷ lệ đặt hàng phụ tùng linh kiện từ DN nội địa cung cấp rất thấp. Trong số các DN cung cấp hiện có, hơn 90% là DN FDI, chỉ có số ít DN trong nước có thể tham gia vào mạng lưới sản xuất lắp ráp ô tô", ông Toàn nói.
Theo đại diện của Bộ Công Thương, nguyên nhân chủ yếu là do dung lượng thị trường nội địa hạn chế. Thị trường nhỏ, bị phân tán bởi nhà lắp ráp và nhiều model khác nhau khiến cho các công ty sản xuất (cả sản xuất và lắp ráp ô tô và sản xuất linh kiện phụ tùng) rất khó đầu tư, phát triển sản xuất hàng loạt, các DN CNHT chưa đủ khả năng tiếp cận các chuỗi sản xuất ô tô ở nước ngoài.
"Chưa tạo được sự hợp tác liên kết và chuyên môn hoá giữa các DN trong sản xuất- lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn...", ông này cho hay.
Ông lớn Toyota nói khó, xin chính sách đặc thù
Đại diện Toyota Việt Nam, ông Shinjiro Kajikawa, Phó Giám đốc Toyota Việt Nam nói: Thị trường Việt Nam có biến động và bất ổn về chính sách nên các nhà đầu tư do dự khi vào Việt Nam.
Thêm vào đó sản xuất thiết bị nội địa còn thấp, đơn cử, sản lượng của Toyota Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực ASEAN. Trong khi đó, hệ thống nhà cung cấp ở Việt Nam còn rất hạn chế nên 90% là nhập khẩu.
Cạnh tranh về chi phí sản xuất Việt Nam yếu nên chi phí sản xuất xe ở Việt Nam đang cao hơn xe nhập khẩu nguyên chiếc từ các nước ASEAN khoảng từ 10-20%.
Đại diện Toyota cho rằng: Sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô không thể đạt được nếu thiếu sự tăng trưởng của thị trường, sản xuất lắp ráp xe trong nước và công nghiệp hỗ trợ.
Để ủng hộ cho công nghiệp hỗ trợ, linh kiện nội địa cần cạnh tranh hơn so với linh kiện nhập khẩu về chất lượng, chi phí và giao hàng.
Trong đó, chi phí, sản lượng đóng vai trò quan trọng nhưng “Việt Nam đang phải đối mặt với “sản lượng bất lợi” (sản xuất nhiều chi phí cao) so với các nước khác vì phải nhập khẩu nhiều linh phụ kiện.
Đại diện Toyota lại xin ưu đãi: "Sản lượng bất lợi là vấn đề có tính hệ thống nên các công ty sẽ gặp khó khăn khi phải giải quyết. Vì vậy, để mở rộng nội địa hoá, chúng tôi mong muốn Chính phủ sẽ cân nhắc các chính sách có hiệu quả để giảm chi phí đầu tư”.
Nguyễn Tuyền (Dân Trí)

Có thể bạn quan tâm

Tích cực phát huy tiềm năng nông sản Gia Lai

Tích cực phát huy tiềm năng nông sản Gia Lai

(GLO)- Ngày hội Nông sản tỉnh Gia Lai lần thứ I gắn với Hội thi sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu năm 2025 (diễn ra từ ngày 17 - 19.10 tại phường Pleiku) là sự kiện nông nghiệp nổi bật, thu hút sự quan tâm của đông đảo nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Dây chuyền sản xuất nước giải khát từ thảo dược của Công ty TNHH Phát triển Khoa học Quốc tế Trường Sinh (Khu công nghiệp Trà Đa, phường Pleiku). Ảnh: Hà Duy

Gia Lai: "Cú hích" mới cho kinh tế tư nhân bứt phá

(GLO)- Khu vực kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò trụ cột trong tăng trưởng của tỉnh Gia Lai. Với đóng góp hơn 80% GRDP, gần 23% tổng thu ngân sách và tạo việc làm cho 94% lao động toàn tỉnh, khu vực này đã chứng minh năng lực dẫn dắt nhiều lĩnh vực phát triển.

Tạo đột phá thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp

Tạo đột phá thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp

(GLO)- Xác định công nghiệp là 1 trong 3 trụ cột tăng trưởng của nền kinh tế, tỉnh Gia Lai đang tập trung tháo gỡ những vướng mắc, điểm nghẽn về hạ tầng, đất đai và thủ tục đầu tư, hướng đến tạo đột phá mới trong thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp.

Ông Thái Như Hiệp-Tổng Giám đốc Công ty TNHH Vĩnh Hiệp nhận Giải thưởng Doanh nhân xuất sắc châu Á-Thái Bình Dương. Ảnh: DNCC

Khát vọng xây dựng thương hiệu giá trị

(GLO)- Những năm qua, cộng đồng doanh nghiệp (DN) tỉnh Gia Lai luôn nỗ lực phát triển với khát vọng xây dựng những thương hiệu thật, giá trị thật, coi đó không chỉ là đích đến về lợi nhuận, mà còn là lời cam kết về niềm tin, trách nhiệm xã hội.

Ban Quản lý rừng phòng hộ Bắc Biển Hồ đã hoàn thành toàn bộ kế hoạch được giao năm 2025. Ảnh: M.P

Gia Lai tăng tốc trồng rừng, hướng tới mục tiêu hơn 16.000 ha trong năm 2025

(GLO)- Gia Lai đặt mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững, đẩy nhanh trồng mới và phục hồi hơn 16.000 ha rừng trong năm 2025. Dù gặp khó khăn về thời tiết, địa hình và nhân lực, các địa phương vẫn nỗ lực phủ xanh đất trống, góp phần bảo vệ “lá phổi xanh” Tây Nguyên và ứng phó biến đổi khí hậu.

Chứng chỉ VFCS/PEFC giúp sản phẩm từ rừng của Công ty TNHH Lâm nghiệp Sông Kôn có giá trị kinh tế cao khi tiêu thụ trên thị trường trong và ngoài nước. Ảnh: N.N

Phó Giám đốc VFCO Nguyễn Hoàng Tiệp: Chứng chỉ rừng đảm bảo lợi ích cho người trồng và doanh nghiệp

(GLO)- Chứng chỉ rừng giúp nâng giá trị gỗ, hỗ trợ kỹ thuật cho người trồng và tạo nguồn nguyên liệu đạt chuẩn cho doanh nghiệp. Xung quanh vấn đề này, P.V Báo và phát thanh, truyền hình Gia Lai đã trao đổi với TS. Nguyễn Hoàng Tiệp-Phó Giám đốc Văn phòng Chứng chỉ Quản lý rừng bền vững (VFCO).

Năng lượng tái tạo là lĩnh vực tiềm năng của tỉnh Gia Lai, đóng góp lớn vào sản lượng điện của quốc gia. Ảnh: Vũ Thảo

Nền tảng cho công thương nghiệp Gia Lai bứt phá

(GLO)- Sự kết hợp giữa lợi thế của cao nguyên đất đỏ bazan và tiềm năng vùng ven biển đang mở ra cơ hội để Gia Lai vươn lên trở thành cực tăng trưởng mới của miền Trung-Tây Nguyên, nhất là trong phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với công nghiệp chế biến, xuất khẩu và logistics.

null