Tăng tuổi nghỉ hưu: Chưa có sự đồng thuận cao từ người lao động

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh, cho biết quá trình lấy ý kiến cũng cho thấy, dư luận người lao động, nhất là người lao động trực tiếp sản xuất, chưa có sự đồng thuận cao về quy định tăng tuổi nghỉ hưu.

 

 
 Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh
Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh



Sáng 14-8, tiếp tục Phiên họp thứ 36, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về một số vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi).

Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh đã trình bày báo cáo xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số nội dung lớn còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) như tuổi nghỉ hưu, mở rộng khung thỏa thuận thời giờ làm thêm tối đa, tiền lương làm thêm giờ...

Tăng tuổi nghỉ hưu: Chưa có sự đồng thuận cao từ người lao động

Về tuổi nghỉ hưu, bà Thúy Anh cho biết nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tán thành với quy định theo phương án 1 do Chính phủ trình quy định về lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu, tức là đến năm 2028 sẽ có lao động nam đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 62 và năm 2035 sẽ có lao động nữ đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 60.

Tuy nhiên, một số ý kiến đại biểu còn băn khoăn về quy định nâng tuổi nghỉ hưu so với hiện hành và đề nghị làm rõ về việc quy định chênh lệch tuổi nghỉ hưu (02 tuổi) giữa lao động nam và lao động nữ; đồng thời cũng cho rằng việc quy định này sẽ dẫn đến nhiều tranh luận khác nhau giữa "tuổi nghỉ hưu" và "tuổi nghề". "Ủy ban thấy rằng đề xuất quy định điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động (NLĐ) nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 28-NQ/TW và với mục tiêu lâu dài để chủ động chuẩn bị ứng phó với quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh của Việt Nam. Việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần lộ trình điều chỉnh chậm sẽ có tác động tốt hơn đến tâm lý xã hội của người lao động và doanh nghiệp, tránh tác động, phản ứng quá mạnh đối với NLĐ và thị trường lao động".

Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội cũng nhấn mạnh thêm: Việc quy định về tuổi nghỉ hưu cần phải được khẳng định là tuổi nghỉ hưu chung của quốc gia đối với NLĐ; Việc quy định quyền được nghỉ hưu sớm hơn 05 năm chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, cần phải được cân nhắc để điều chỉnh nghỉ hưu sớm hơn 10 năm đối với một số công việc đặc biệt như làm việc khai thác than trong hầm lò, người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn, rủi ro nghề nghiệp …; Việc quy định quyền được nghỉ hưu cao hơn không quá 05 năm so với tuổi nghỉ hưu chung cũng phải được hướng dẫn cụ thể hơn đối với một số ngành, lĩnh vực đang kéo dài tuổi nghỉ hưu cao hơn cả mức 05 năm (giáo dục, y tế…).

Tuy nhiên đến nay Chính phủ vẫn chưa bổ sung tài liệu làm rõ những kiến nghị của Ủy ban đã nêu trong Báo cáo thẩm tra số 2032/BC-UBVĐXH14 như "bổ sung dự thảo Danh mục các công việc, ngành nghề, vị trí việc làm thuộc trường hợp đặc biệt mà người lao động có thể được nghỉ hưu ở độ tuổi thấp hơn hoặc cao hơn 5 năm theo quy định", chưa đưa ra được cơ sở, bằng chứng khoa học để quy định về khoảng cách tuổi nghỉ hưu (02 tuổi) giữa lao động nam và lao động nữ. Đề nghị Chính phủ bổ sung các thông tin cần thiết trên để làm cơ sở, căn cứ để quy định độ tuổi nghỉ hưu cụ thể theo lộ trình hợp lý. Bên cạnh đó, Ủy ban đề nghị Chính phủ và Cơ quan soạn thảo nghiên cứu việc chuyển tên gọi của điều quy định về tuổi nghỉ hưu thành tuổi hưởng lương hưu có thể sẽ phù hợp hơn.

"Quá trình lấy ý kiến cũng cho thấy, dư luận NLĐ (nhất là NLĐ trực tiếp sản xuất, đứng máy dây chuyền… ở doanh nghiệp) chưa có sự đồng thuận cao về quy định tăng tuổi nghỉ hưu, đòi hỏi cần có thời gian để tiếp tục tham vấn, lấy ý kiến rộng rãi các đối tượng khác nhau và quan tâm hơn công tác truyền thông trong thời gian tới"- bà Thúy Anh cho hay.

Làm thêm giờ phải trả lương theo lũy tiến

Về tiền lương làm thêm giờ, bà Nguyễn Thúy Anh cho biết một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị giữ như quy định hiện hành về vấn đề này; có ý kiến khác đề nghị cần quy định về lương làm thêm giờ theo lũy tiến.Do còn ý kiến khác nhau của các bên, Ủy ban dự kiến hai phương án trình xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Phương án 1: như dự thảo do Chính phủ trình .

Phương án 2: được thiết kế trên cơ sở ý kiến của Tổng LĐLĐ Việt Nam là trả lương lũy tiến đối với thời gian làm thêm giờ tính theo số giờ làm thêm trong ngày và có sự khác biệt tương ứng với làm thêm giờ trong ngày thường, ngày nghỉ hằng tuần, ngày lễ, tết và ngày nghỉ có hưởng lương và thể hiện tại Điều 100 của dự thảo Bộ luật Lao động

Ủy ban thấy rằng cả hai phương án thực chất đều là trả lương theo lũy tiến. Phương án 2 được đề xuất nhằm để người sử dụng lao động cân nhắc, tính toán khi có nhu cầu, nếu thấy thật sự cần thiết và bảo đảm hiệu quả mới huy động làm thêm giờ, trên cơ sở thỏa thuận của hai bên.

Tuy nhiên, cần phải đánh giá tác động về kinh tế - xã hội, trong đó có nguồn lực ngân sách nhà nước phải chi trả đối với khu vực công; lấy thêm ý kiến người lao động, người sử dụng lao động, chuyên gia, các nhà quản lý… để việc lựa chọn có cơ sở khoa học, thực tiễn, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa người sử dụng lao động và người lao động, chú trọng việc đảm bảo tái tạo sức lao động của người lao động. Đồng thời, việc trả lương lũy tiến cần đặt trong mối quan hệ giữa giờ làm thêm theo ngày, theo tháng và theo năm để nhất quán về quan điểm.

Trên thực tế, khi người sử dụng lao động chỉ tổ chức cho người lao động làm thêm tối đa không quá 02 giờ/ngày thì việc tính lũy tiến theo Phương án 2 cũng không có nhiều ý nghĩa. Ngoài ra, cũng cần tính đến các lao động làm thêm giờ mang tính đặc thù như trực theo ca của cán bộ y tế, lái xe, bảo vệ.

 



Nên giảm giờ làm việc chính thức

Một số ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng quy định về thời giờ làm việc giữa khu vực công (khu vực hành chính) với người lao động đang không bình đẳng, đề nghị nghiên cứu để quy định NLĐ làm việc theo chế độ 44 giờ/tuần.

Ủy ban thấy rằng, về quan điểm và nguyên tắc chung, cần khuyến khích giảm thời gian làm việc bình thường trong tuần của khu vực có quan hệ lao động nhằm hướng tới bình đẳng với khu vực hành chính và xu hướng chung hiện nay của thế giới với mục tiêu thúc đẩy các biện pháp tăng năng suất lao động, việc làm đầy đủ và tạo dư địa mở rộng khung làm thêm giờ cho một số ngành nghề, lĩnh vực có nhu cầu. Tiếp thu ý kiến đại biểu, trên cơ sở ý kiến của Tổng LĐLĐ Việt Nam và nguyện vọng của đa số người lao động, Ủy ban đề xuất hai phương án trình xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội:



Phương án 1: như dự thảo Chính phủ đã trình Quốc hội .

Phương án 2: được thiết kế trên cơ sở ý kiến của Tổng LĐLĐ Việt Nam và đa số ý kiến NLĐ, đó là, thời giờ làm việc bình thường là 8 giờ/ngày và 44 giờ/tuần được thể hiện tại Điều 107 của dự thảo Bộ luật.

Để Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội có đầy đủ cơ sở xem xét vấn đề này, đề nghị Cơ quan soạn thảo bổ sung đánh giá, tổng kết kết quả thực hiện chính sách khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hiện hành; cung cấp kinh nghiệm của các nước về vấn đề này, trong đó lưu ý về thời giờ làm việc giữa công chức, khu vực công với khu vực doanh nghiệp, thị trường của các nước ASEAN, các nước thành viên Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), các nước EU; kèm theo thông tin cụ thể hơn về thời giờ làm thêm của các quốc gia tương ứng với thời giờ làm việc bình thường.




Văn Duẩn (NLĐO)

Có thể bạn quan tâm

Pleiku tập trung các nguồn lực góp phần giảm nghèo

Pleiku tập trung các nguồn lực góp phần giảm nghèo

(GLO)- Nhờ tích cực hỗ trợ về sinh kế, xây dựng nhà ở và các chương trình hỗ trợ thiết thực khác đến cuối năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo của thành phố Pleiku giảm còn 0,12%, vượt 0,04% so với chỉ tiêu giảm nghèo năm 2024 mà UBND tỉnh giao (kế hoạch giao 0,16%).

Sau khi được hỗ trợ làm nhà, gia đình anh Đàm Văn Kim (thôn 4, xã Ia Vê) yên tâm phát triển kinh tế và đã thoát nghèo. Ảnh: L.N

Chư Prông hỗ trợ hộ nghèo an cư

(GLO)- Triển khai Dự án 1 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2021-2025, huyện Chư Prông (tỉnh Gia Lai) đã xây dựng hàng trăm căn nhà giúp hộ nghèo “an cư lạc nghiệp”.