Chợ quê

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
(GLO)- Bây giờ thì hầu như đi đến bất kỳ nơi nào chúng ta cũng đều gặp chợ, từ những chợ lớn sầm uất cho đến những “chợ xổm”, chợ chiều hay siêu thị.

Khoảng 40-50 năm về trước, chợ vốn là nơi để người dân trong vùng mang đến trao đổi những sản phẩm của địa phương và cũng là nơi để vài ba ngày mọi người có dịp gặp gỡ, giao lưu.

Tuy xa quê đã nhiều năm nhưng tôi vẫn không quên được cảnh chợ phiên ở quê nhà, một vùng nông thôn ven đầm Thị Nại, vạn Gò Bồi, Tuy Phước, Bình Định. Chợ nằm giữa làng và thường nhóm họp vào một số ngày nhất định trong tháng.

Chợ Phụng Sơn nhóm vào các ngày 6, 9 âm lịch; chợ Kỳ Sơn là các ngày 1, 4 (cũng âm lịch) bán mua những sản vật ở quê. Má tôi bán hàng ở chợ. Hàng bà bán là nước mắm, xì dầu, dầu ăn, dầu lửa… Cứ đến phiên là bà đi chân không, vai gánh một gánh nặng, trên đó nào thùng, nào chai, nào ống thụt (ống bằng thiếc, hình chữ L lộn ngược, có lưỡi gà ở đầu ống và chỗ ống ra, thụt sèn sẹt để bơm dầu từ thùng ra chai). Quãng đường từ nhà đến chợ khoảng hơn 2 km.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Minh họa: HUYỀN TRANG

Chợ quê nhưng rất vui, tràn ngập tiếng nói cười. Những người đi chợ hầu như đều quen biết nhau nên không nói thách, chỉ mặc cả qua loa. Nhớ lắm các bà, các mẹ đến mua dầu dừa: Ai cũng thế, mua xong quẹt một chút dầu dính từ chai hoặc ống thụt rồi đưa lên bôi mái tóc óng mượt. Ngày còn nhỏ theo má đi chợ, tôi thường quẩn quanh nơi hàng quà, thi thoảng có gánh mãi võ đến biểu diễn và bán thuốc cao đơn hoàn tán. Bọn trẻ chúng tôi chen lấn nhau để xem các màn biểu diễn lạ mắt như nhảy qua vòng lửa, múa côn, đánh quyền…

Rồi tôi xa quê lên Tây Nguyên. Các làng vùng xa, vùng sâu trước kia vốn không có chợ. Bà con thường gùi những sản vật của địa phương như: gà, cá suối, măng le, bầu bí, xoài vườn, mật ong rừng… trao đổi với nhau. Đến những năm sau giải phóng ở một số buôn làng mới bắt đầu manh nha một vài chợ nhỏ, nhóm họp trong vài giờ.

Bấy giờ, bà con dân tộc thiểu số tại chỗ cũng chưa quen với việc mua bán, phần lớn phụ thuộc vào người bán hoặc mua, nói sao trả vậy. Rồi lần lượt các công-nông trường ra đời, các khu kinh tế mới hình thành, cả những người dân di cư tự do cũng theo nhau lên Tây Nguyên lập nghiệp. Đời sống các vùng miền giao thoa, người dân các làng dần quen với kiểu trao đổi mới bằng tiền. Các “công ty hai sọt” mang lương thực, thực phẩm đến cung ứng cho bà con và mua về sản vật tại chỗ. Chiếc xe gắn máy của họ quả thật vạn năng, chở được bao nhiêu hàng hóa, từ gạo cho đến các loại thịt, cá, sợi bún, bánh phở, rau dưa, gia vị…

Đã vậy lại còn nhận mua hàng theo “toa” cho người làng đặt trước để dùng vào việc riêng gia đình. Một số thị tứ như Ia Krái, Ia O, Ia Tô (huyện Ia Grai), Ia Dom (huyện Đức Cơ) đã có chợ, chỉ vài ba quầy nhưng bán đủ thứ hàng hóa thiết yếu cho bà con. Tuy vậy có nơi mang đậm bản sắc các dân tộc như chợ Ia Mơ (huyện Chư Prông), Chơ Long (huyện Kông Chro) hội tụ cả đồng bào Jrai, Bahnar tại chỗ và đồng bào dân tộc ít người từ phía Bắc vào như Mông, Thái, Mường.

Tuy quy mô còn nhỏ nhưng nhờ có chợ, đời sống của bà con các buôn làng phần nào được nâng cao, đáp ứng nhu cầu mua sắm, bước đầu đã hình thành được tập quán mua bán và biết sử dụng đồng tiền vào sinh hoạt.

Không còn cảnh sáng tinh mơ, những người phụ nữ phải dậy sớm khom lưng giã gạo cho cả nhà ăn trong ngày. Gạo, mắm, muối, mì tôm, bột nêm… có sẵn trong quán làng. Nải chuối, con gà, gùi măng… bà con mang ra chợ là có người hỏi mua, được giá mới bán rồi mua về những thứ cần thiết cho gia đình.

Năm tháng qua đi, má tôi đã thành người thiên cổ nhưng chợ phiên quê tôi vẫn còn đó những hàng quán mua bán như xưa. Người ta thường nói: Muốn tìm hiểu đời sống tinh thần, vật chất của một vùng nào đó hãy đến chợ.

Chợ quê tôi và chợ ở Tây Nguyên tuy cách xa nhau nhưng vẫn có nét tương đồng, đó là sự chân chất trong văn hóa mua bán, đó là sự góp mặt của những sản vật do chính người dân tại chỗ làm ra, là sự pha trộn giữa giao tiếp mộc mạc nông thôn và hối hả đô thị.

Và phải chăng, chính sự hiện diện của ngôi chợ quê như là bức tường chắn những luồng gió ngoại lai độc hại đã và đang thâm nhập ảnh hưởng đến đời sống của người dân nông thôn bao đời bình dị, hiền lành.

Có thể bạn quan tâm

Chênh chao mùa về

Chênh chao mùa về

(GLO)- Những ngày này, mưa dường như đã ngừng rơi. Khoảng mênh mông bao la chờn vờn mây trắng bỗng trở thành phông nền cho bức tranh thiên nhiên vời vợi nắng. Gió cũng đã thao thiết trở mùa.

Chiếc áo ấm cũ

Chiếc áo ấm cũ

Mấy ngày nay trời trở lạnh. Mẹ lúi húi dọn tủ đồ, rồi lấy ra chiếc áo len đã cũ, phần ống tay đen nhẻm, lại còn bị bung chỉ một đoạn. Thay vì bỏ đi, mẹ vuốt ve rồi lấy kim chỉ ra khâu khâu vá vá.

Về trong tiếng gió

Về trong tiếng gió

(GLO)- Nhiều khi, tôi thấy gió thổi trống không phía sau lưng mình. Thời gian vừa thoáng như chồi biếc đã thấy lá vàng, chẳng để lại gì nhiều nhưng đủ gợi những vời vợi nhớ thương trong cuộc đời.

Vệt phố

Vệt phố

(GLO)- Nương náu phố núi hơn 40 năm ròng nhưng hình như tôi chưa kịp hiểu hết những ngõ ngách thẳm sâu trong lòng phố.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet

Thương những tàn phai

(GLO)- Giao mùa, khi làn gió mang hơi lạnh ào qua, những chiếc lá khô bứt khỏi cành rơi lả tả. Một chiếc lá rơi, một cánh hoa tàn, một buổi chiều nhạt nắng tạo nên khung cảnh tịch liêu với vẻ đẹp rất riêng. Có người bảo đó là cái đẹp của sự tàn phai.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Bữa cơm ngoài đồng

(GLO)- Tôi sinh ra từ làng, lớn lên cùng cánh đồng mỗi năm 2 vụ chính. Thuở ấu thơ, tôi và cánh đồng cùng đi qua những mùa mưa nắng, cùng đằm vị mồ hôi chát mặn của cha mẹ và niềm vui lan tỏa của những bữa cơm ngoài đồng.

“Có nỗi nhớ không mang tên”

“Có nỗi nhớ không mang tên”

(GLO)- Chiếc xe khách lướt êm trên quốc lộ 14 uốn lượn theo những hàng thông. Mặt trời đã ở phía sau lưng, hoàng hôn lộng lẫy dát vàng lên những tàng cây cao vút. Khi bước chân tôi chạm vào vùng đất đỏ bazan thì sương mù cũng vừa bảng lảng.

Cá đồng mùa lụt

Cá đồng mùa lụt

(GLO)- Ở quê tôi, gia đình nào cũng có những bộ đồ nghề đánh bắt cá, chủ yếu là tự làm bằng tre nứa như: nơm, đó, lờ, ống lươn, rớ, đăng, cần câu, chà (chà di)… Ngay từ nhỏ, tôi đã được cha và chú dạy cách đan một số dụng cụ đánh bắt cá nước ngọt.

“Mưa trên biển vắng”

Mưa trên biển vắng

(GLO)- Tôi biết mình mãi là người của núi, nhưng thi thoảng trong giấc mơ mùa hạ, tôi lại nghe tiếng sóng vỗ nhòa vào mỏm đá xa xưa. Như thể tự kiếp nào, tôi đã bỏ quên ở biển thứ gì đó thẫm xanh, để bây giờ, không thể khác hơn, tôi luôn bị xâm chiếm bởi một nỗi nhớ biển.
Như cau trước bão

Như cau trước bão

(GLO)- Lúc gia đình tôi chuyển về nơi ở mới, ngay trước cửa đã có hàng cau thẳng tắp. Cây nối nhau, cao tầm hơn chục mét, như chiếc lược lớn chải vào mây trời.

Trăng ngọc ngà

Trăng ngọc ngà

Non đêm, mấy người đàn ông trung niên trong xóm tụ lại trước sân nhà Minh, chơi cờ giết thời gian, ca hát góp vài tiếng lao xao chờ đón trăng lên. Trong đám người lao xao đó có vợ chồng Thụy.
Mây ngũ sắc…

Mây ngũ sắc…

Bà ơi bà! Giá mà bà cháu mình được ngồi đung đưa trên vầng trăng lưỡi liềm kia thì vui phải biết. Hai bà cháu mình ngắm mây bay luồn qua những kẽ ngón chân. Thò tay xuống nhón mây chỗ này thả ra chỗ kia. Nặn lại mấy vầng mây hình thù xấu xí kia thành hình bông hoa, con cún.
Lời sóng vỗ

Lời sóng vỗ

(GLO)- Biển trong mắt người gắn mình với xứ núi hơn 40 năm luôn là một điều bí ẩn. Có lẽ vì thế nên những lần đắn đo lựa chọn điểm đến cho những kỳ nghỉ ngắn hoặc dài ngày, nơi có biển vẫn luôn là ưu tiên.
Nhớ những mùa vàng

Nhớ những mùa vàng

(GLO)- Những mùa lúa vàng trĩu bông thơm mùi rơm rạ là hình ảnh đã ăn sâu vào ký ức bao thế hệ người Việt, đặc biệt là những người lớn lên ở thôn quê.
Thơm thảo mùa thu

Thơm thảo mùa thu

(GLO)- Một buổi chiều thu, giữa người xe phố phường giăng mắc, tôi chợt thấy bên vỉa hè một chị hàng rong lặng lẽ bày ra những quả hồng. Những quả hồng chín ửng căng bóng, màu cam đỏ pha chút thẫm xanh dịu mắt được xếp vào chiếc mẹt tre.