Theo đó, kế hoạch đề ra mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào DTTS và miền núi là 3%. Về bố trí, sắp xếp ổn định dân cư, phấn đấu giải quyết cho khoảng 50% số hộ DTTS thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất.
Về hạ tầng, phấn đấu 99,43% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được bê tông hóa hoặc nhựa hóa; 98,95% thôn, làng có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; 86,6% số trường, lớp học được xây dựng kiên cố; 99,99% số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp; 92% người DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% đồng bào DTTS được xem truyền hình và 90% được nghe phát thanh.
Gia Lai phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số giảm 3%. Ảnh: Phương Vi |
Về giáo dục-đào tạo, phấn đấu tỷ lệ học sinh mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt 97,7%, học sinh trong độ tuổi học tiểu học đạt 96,1%, học THCS đạt 90,3%, học THPT đạt 47,5%; người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông đạt 78,2%. Bên cạnh đó, tăng cường công tác y tế để đồng bào DTTS được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại; tiếp tục khống chế dịch bệnh ở vùng DTTS và miền núi; huy động mọi nguồn lực hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho người DTTS, phấn đấu đến cuối năm 2023 có 77% người DTTS tham gia bảo hiểm y tế; 84,8% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc được sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 17%.
Về văn hóa, bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; 55% di sản văn hóa truyền thống được kiểm kê, sưu tầm; 90% di tích xếp hạng được bảo vệ và chống xuống cấp; 10% địa điểm du lịch được hỗ trợ đầu tư, khai thác song song với với việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống; 10% hướng dẫn viên du lịch được đào tạo, tập huấn kiến thức về văn hóa truyền thống các DTTS trên địa bàn tỉnh; 92,3% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng; 55% thôn có đội văn hóa, văn nghệ hoạt động thường xuyên, có chất lượng.
Về lao động, việc làm, phấn đấu 47,2% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người DTTS; phấn đấu 81,8% người lao động có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ nhưng có năng suất, thu nhập cao hơn sau khi học nghề. Ngoài ra, đào tạo, quy hoạch, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác dân tộc từ tỉnh đến cơ sở, nhất là các DTTS tại chỗ; trên 88% đơn vị hành chính cấp huyện có phòng Dân tộc.
Tổng nguồn vốn để thực hiện kế hoạch là hơn 1.011,8 tỷ đồng. Trong đó, vốn ngân sách trung ương hơn 777 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương hơn 86,1 tỷ đồng, vốn vay tín dụng chính sách hơn 142,8 tỷ đồng, vốn huy động hợp pháp khác gần 5,8 tỷ đồng, vốn chưa phân bổ hơn 110,5 tỷ đồng.