Nước nông nghiệp nhưng Việt Nam nhập khẩu ngô nhiều nhất Đông Nam Á, sao không chủ động trồng ngô?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Trong một cuộc trao đổi với các doanh nghiệp nông nghiệp lớn tổ chức mới đây, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Lê Minh Hoan nêu câu hỏi: Tại sao một đất nước nông nghiệp bắp cũng phải nhập, đậu nành cũng phải nhập để làm thức ăn chăn nuôi, thủy sản?”.

Nghịch lý: Nước nông nghiệp vẫn phải nhập khẩu ngô làm thức ăn chăn nuôi

Theo Bộ Nông nghiệp Mỹ, Việt Nam là nhà nhập khẩu ngô lớn nhất ở Đông Nam Á và dự báo sẽ là nhà nhập khẩu ngô lớn thứ 5 trên toàn cầu vào các năm 2021/2022.

Cụ thể, trong những năm qua, Việt Nam đã tăng cường nhập khẩu ngô làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi để phục vụ ngành sản xuất thịt đang tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua.

Báo cáo của Bộ NNPTNT cho thấy, 8 tháng năm 2021, Việt Nam nhập khẩu khoảng 14,45 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, trị giá 5,22 tỷ USD, tăng 24,3% về số lượng và 47,4 % về giá trị so với cùng kỳ 2020.

Trong đó, Việt Nam nhập nhiều nhất thức ăn chăn nuôi giàu năng lượng với khối lượng lên đến 8,97 triệu tấn, tương ứng 2,35 tỷ USD, tăng 49,4% về số lượng và 89,5% về giá trị so với cùng kỳ 2020.

Ngoài ra, Việt Nam cũng nhập 5,09 triệu tấn thức ăn giàu đạm đạt 5,09 triệu tấn, tương ứng với 2,27 tỷ USD, giảm 2,6% về số lượng nhưng tăng 28% về giá trị.

Trên thực tế, nghịch lý này đã được đại diện nhiều doanh nghiệp, hiệp hội đề cập đến.

Trong một cuộc trao đổi với các doanh nghiệp nông nghiệp lớn tổ chức mới đây, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Lê Minh Hoan nêu câu hỏi: Tại sao một đất nước nông nghiệp bắp cũng phải nhập, đậu nành cũng phải nhập để làm thức ăn chăn nuôi, thủy sản?".

Trong khi đó, bà Phạm Thị Huân, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Ba Huân trong cuộc tọa đàm với Bộ trưởng Lê Minh Hoan cũng chỉ rõ nghịch lý này và bà Huân đề nghị nên có chính sách phát triển vùng nguyên liệu trong nước, giảm phụ thuộc nhập khẩu.

 

Do phụ thuộc nhập khẩu nên giá thức ăn chăn nuôi trong thời gian qua tăng cao, ảnh hưởng lớn đến việc chăn nuôi của bà con. Trong ảnh: Nông dân ở Nam Định chăm sóc đàn heo. Ảnh: M.C
Do phụ thuộc nhập khẩu nên giá thức ăn chăn nuôi trong thời gian qua tăng cao, ảnh hưởng lớn đến việc chăn nuôi của bà con. Trong ảnh: Nông dân ở Nam Định chăm sóc đàn heo. Ảnh: M.C


Cần quy hoạch vùng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi

Để chủ động nguồn thức ăn chăn nuôi, trao đổi với Dân Việt, ông Tống Xuân Chinh, Phó Cục trưởng Cục Chăh nuôi (Bộ NNPTNT) rằng, cần có chính sách, thể chế tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân tích tụ đất nông nghiệp đủ thành cánh đồng mẫu lớn để áp dụng khoa học, công nghệ trong khâu giống (có thể trồng ngô biến đổi gen có năng suất cao), cơ giới hóa đồng bộ để sản xuất ngô, đậu tương, ngô sinh khối làm thức ăn cho chăn nuôi.

Chuyến nhanh 500.000 ha đất nông nghiệp kém hiệu quả mà Chính phủ đã cho phép chuyển sang trồng cây thức ăn chăn nuôi, hướng dẫn và mở rộng việc trồng ngô sinh khối trên đất vụ Đồng ở miền Bắc, miền Trung và nhưng địa phương nào có điều kiện.

Theo ông Chinh, hằng năm, nước ta có khoảng 156,8 triệu tấn phụ phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thủy sản, trong đó gấn 90 triệu tấn có thể thu gom, chế biến, bảo quản làm thức ăn cho gia súc ăn cỏ, chế biến làm thức ăn cho lợn, gia cầm thay thể một phần nguyên liệu thức ăn nhập khẩu phải nhập khẩu.

"Đây là một tiềm năng to lớn chưa được khải thác hiệu quả, được coi là nguồn tài nguyên tái tạo trong hệ thống nông nghiệp, là nguyên liệu đầu vào của quá trình nông nghiệp tuần hoàn.

Vì vậy, Bộ NNPTNT đang chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, trong đó có Cục Chăn nuôi xây dựng chính sách hỗ trợ tổ chức, cá nhân, các mô hình liên kết sản xuất để đầu tư công nghệ, cơ giới hóa đồng bộ để thu gom, sơ chế, chế biến sâu, bảo quản phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho chăn nuôi, sản xuất phân bón hữu cơ, chăn nuô côn trùng để lấy protein thay thể cho bột cá, khô dầu và sản xuất phân bón hữu cơ từ phụ phẩm nông nghiệp thông qua tiêu hóa của côn trùng" - ông Chinh cho biết.

 

Để chủ động nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, Việt Nam vẫn phải tổ chức trồng ngô, đưa giống mới vào sản xuất, cân nhắc mở rộng diện tích ngô biến đổi gen... Trong ảnh: Diện tích canh tác ngô biến đổi gen ở Sơn La. Ảnh: CLA.
Để chủ động nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, Việt Nam vẫn phải tổ chức trồng ngô, đưa giống mới vào sản xuất, cân nhắc mở rộng diện tích ngô biến đổi gen... Trong ảnh: Diện tích canh tác ngô biến đổi gen ở Sơn La. Ảnh: CLA.


Cũng theo ông Chinh, giải pháp căn bản nhất để giảm phụ thuộc nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu là quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi.

Tuy nhiên, điều này không đơn giản vì nó đòi hỏi phải có sự đầu tư đồng bộ về phát triển, đổi mới thể chế trong quản lý đất nông nghiệp, chính sách hỗ trợ chuyển đổi và đầu tư khoa học, công nghệ, cơ giới hóa đồng bộ, trong đó đưa giống ngô, đầu tương biến đổi gen canh tác đại trà ở nước ta chìa khóa cho sự thành công.


Cân nhắc mở rộng diện tích ngô biến đổi gen

Đó là đề xuất của TS Đoàn Xuân Trúc, Phó Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam tại Hội nghị trực tuyến bàn giải pháp phát triển ngành chăn nuôi những tháng cuối năm 2021 do Bộ NNPTNT tổ chức mới đây.

Theo ông Trúc, dù là nước nông nghiệp nhưng Việt Nam vẫn nhập nhiều ngô, nguyên nhân là do việc canh tác ngô ở Việt Nam khó cạnh tranh về hiệu quả so với cây trồng khác.

Theo ông Trúc, để chủ động nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, Việt Nam vẫn phải tổ chức trồng ngô, đưa giống mới vào sản xuất, cân nhắc mở rộng diện tích ngô biến đổi gen...

Ông Nguyễn Văn Vương, Trưởng phòng Cây Lương thực, cây thực phẩm (Cục Trồng trọt, Bộ NNPTNT) cho biết, hiện tổng diện tích trồng ngô ở Việt Nam dao động từ 900.000 -1,1 triệu ha.

Trong thời gian qua, diện tích trồng ngô giảm đáng kể, nguyên nhân là do giá thành sản xuất cao, chi phí lớn, năng suất chưa cao nên lợi nhuận trong sản xuất ngô hạn chế, diện tích ngô trồng giảm mạnh.  

Cũng theo ông Vương, trong thời gian qua, các giống ngô biến đổi gen thể hiện tính hiệu quả rõ rệt trong việc phòng trừ một số loại sâu bệnh, nhất là sâu keo mùa thu.

https://danviet.vn/nuoc-nong-nghiep-nhung-viet-nam-nhap-khau-ngo-nhieu-nhat-dong-nam-a-sao-khong-chu-dong-trong-ngo-2021103122135773.htm
 

Theo K.Nguyên (Dân Việt)

Có thể bạn quan tâm

Mô hình sản xuất cây kiệu đạt chuẩn VietGAP của 14 hộ dân ở xã Phù Mỹ Tây. Ảnh: ĐVCC

Mở rộng diện tích trồng kiệu tiêu chuẩn VietGAP

(GLO)- Sau 2 năm triển khai tại xã Hội Sơn và Phù Mỹ Tây (tỉnh Gia Lai), mô hình trồng kiệu theo tiêu chuẩn VietGAP cho thấy hiệu quả rõ rệt, năng suất tăng, sản phẩm an toàn, lợi nhuận cao. Ðây là cơ sở để địa phương mở rộng diện tích và xây dựng liên kết tiêu thụ bền vững cho nông dân.

Hồ chứa nước Biển Hồ B vượt mực nước dâng bình thường sớm hơn so với năm 2024. Ảnh: N.D

Chủ động bảo vệ công trình thủy lợi ở khu vực Tây Gia Lai

(GLO)- Thời điểm này, nhiều hồ chứa thủy lợi lớn ở khu vực phía Tây tỉnh Gia Lai vừa tích nước, vừa điều tiết phù hợp với diễn biến thời tiết. Để đảm bảo vượt lũ an toàn, Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Gia Lai cũng đã triển khai nhiều giải pháp bảo vệ công trình và vùng hạ du.

Nông dân Lào trên đồng lúa thuần BĐR 57 ở giai đoạn chín sữa. Ảnh: T.N

Gia Lai hỗ trợ tỉnh Sekong triển khai mô hình thâm canh lúa cải tiến

(GLO)- Trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa tỉnh Bình Định cũ (nay là tỉnh Gia Lai) và 4 tỉnh Nam Lào, nhiều mô hình chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp được triển khai hiệu quả. Trong đó, mô hình thâm canh lúa cải tiến tại tỉnh Sekong đã góp phần nâng cao năng suất, phát triển nông nghiệp bền vững.

Phát huy lợi thế vùng nguyên liệu, đưa ngành chế biến gỗ bứt phá

Phát huy lợi thế vùng nguyên liệu, đưa ngành chế biến gỗ bứt phá

(GLO)- Sau sáp nhập, tỉnh Gia Lai mới sở hữu lợi thế kép: vùng nguyên liệu rừng trồng rộng lớn ở phía Tây gắn kết với “thủ phủ chế biến gỗ” ở phía Đông. Đây là nền tảng để hình thành chuỗi giá trị lâm nghiệp khép kín, mở rộng thị trường xuất khẩu và tạo động lực mới cho ngành gỗ vươn xa.

null