Nhớ tiếng trẻ thơ nơi rừng thẳm

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Vài tia nắng vàng vọt ló ra chưa kịp nhuốm vàng mặt đất đã bị đám mây màu khói đèn nuốt chửng. Không gian bất chợt tối sầm. Rừng vật vã, trắng nhợt dưới làn nước mịt mùng. Vệt đường lọt thỏm giữa hai bờ cây cao vút trước mặt chúng tôi bỗng chốc thành con sông nhỏ. Chiếc U oát nhảy chồm chồm, nghiêng ngả như chú cóc giữa dòng nước đỏ ngầu bùn đất. Trái với sự lo lắng của chúng tôi, người lái xe vẫn tỏ ra bình thản: “Dẫu sao thì bây giờ thế cũng đã lý tưởng lắm rồi. Một năm trước, con đường còn chưa có hình thù nữa kia”.
Đấy là năm 1999, khi Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 78 (Binh đoàn 15) bổ nhát cuốc đầu tiên xuống vùng đất Mo Ray. Trái với sự “lạc quan” của tài xế, được chừng 3 cây số nữa thì xe bị sụp lầy. Hết tiến lại lùi, xoay trái rồi xoay phải, chiếc U oát vẫn chôn chân giữa vũng bùn đặc quánh. Sốt ruột, Giám đốc Nguyễn Xuân Minh giành lấy tay lái. Báo hại thêm là bởi đánh lái quá tay, vô lăng bị kẹt. Vậy là người lái xe đành trải ni lông nằm ngửa trên vũng bùn để sửa. Cho đến sẩm tối, chúng tôi mới thoát được quãng đường kinh khủng. Tuy nhiên, ấn tượng của tôi hôm ấy không phải là xe mình bị sụp lầy mà là chiếc xe chở công nhân mới tuyển đi vào cũng chung cảnh ngộ. Họ hầu hết là các cô gái trẻ. Mặc các bác tài hì hụi gạt bùn, chèn đá chống lầy, các cô cứ thản nhiên ngồi trên xe khóc sướt mướt. Tôi thầm nghĩ chẳng biết rồi trong số họ còn được mấy người dám trụ lại chốn thâm sơn cùng cốc này?
Một góc xã Mo Ray (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum). Ảnh: Phúc Lập
Một góc xã Mo Ray (huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum). Ảnh nguồn internet

Nhưng sự dự cảm của tôi còn xa hiện thực cuộc bám trụ gian nan để lập nghiệp trên vùng đất mới. 10 năm sau trở lại, tôi mới được nghe chuyện của những công nhân giờ đã là ông bố, bà mẹ có con học tới lớp 4, lớp 5… Đội 1 có 62 công nhân, chủ yếu quê ở Quảng Bình. Nếu nguyên vẹn phải hơn 80 người. Anh Nguyễn Quang Dũng-công nhân Đội 1 kể: Em vốn là dân chài lưới nên cứ hình dung vùng đất mới là “công trường rộn tiếng ca”. Đến nơi hóa ra chỉ một màu rừng hoang lạnh. Mùa mưa, đất trời sũng nước, cả công ty là một ốc đảo. Mùa khô nắng bỏng da, muôn vật như bị xé ra trong miên man những cơn gió man dại. Có người bảo: “Đất này họa chăng chỉ có trồng được cây… cột điện. Chuồn khỏi nơi này là đắc sách”. Cùng xã với anh Dũng, đi 8 người thì 4 bỏ về. “Thực tình là em bấy giờ cũng rất hoang mang. Nhưng rồi lại nghĩ, sau công ty còn cả Binh đoàn. Vả chăng sức trẻ mà làm không nên ăn thì nhục quá”-anh Dũng nói. Nhưng đã xác định ở lại thì phải an cư. Bấy giờ, công ty có phong trào “Vườn nhà trước, vợ chồng sau”. Vườn nhà không khó, “nửa kia” mới khó… Lúc tuyển quân, tỷ lệ nam nữ tương đương nhưng việc bỏ về của nhiều người đã làm lệch. Thế là bắt đầu thời kỳ “nở rộ tình yêu”. Mỗi đợt sinh hoạt tập thể, mỗi cuộc giao lưu đều là những cơ hội quý giá để gặp gỡ, làm quen. Tìm được “đối tượng” đã khó, đến với nhau cũng chẳng dễ dàng… Đội này cách đội kia hàng chục cây số, ra khỏi khu tập thể là mịt mùng rừng. Mà hồi ấy ngay nơi ở, đêm đêm cọp còn về rình bắt heo sau nhà. Tư lệnh Binh đoàn lên thăm, hỏi công nhân có nguyện vọng gì cấp thiết nhất. Không đôi hồi, các cô nói thẳng: Xin Tư lệnh tuyển nhiều công nhân nam vào để chúng em có cơ hội lấy được chồng… Còn giám đốc thì tuyên bố: Ai về quê lấy được vợ mang vào, công ty sẽ chi tiền tàu xe và thưởng luôn 1 triệu đồng!  

Nhưng cuộc sống vốn có những điều kỳ diệu hơn ta nghĩ. Điều kỳ diệu ở đây là tình yêu đã xóa nhòa mọi ranh giới miền quê, dân tộc để không ai phải lẻ bóng trên đời. Chỉ một đội 2, tình yêu đã kết trái 6 miền quê, 5 dân tộc. Mối tình của chàng trai Jrai bản địa A Thẻo với cô gái người Dao Triệu Thị Liên chỉ là một thí dụ... Suốt 5 năm ròng giữa ốc đảo không điện, không trường, không chợ búa, nếu không có điểm tựa tình yêu chắc chắn sẽ không có cuộc sống hôm nay…
Đã hơn 10 năm rồi tôi chưa có dịp trở lại Mo Ray. Cuộc sống bây giờ đương nhiên là đã đổi thay nhiều. Dẫu vậy, như một chất xúc tác, tiếng trẻ thơ năm ấy thỉnh thoảng lại khiến tôi nhớ về bao nhiêu vùng đất đã từng một thời như thế: Chư Prông, Kbang, Ia Grai... Hàng vạn con người đã khởi đầu nên những công ty, nông-lâm trường chỉ từ một màu rừng hoang lạnh, từ cuộc sống gần như một con số không, đối diện với họ còn là sốt rét, là hiểm họa bom mìn trong lòng đất… Những con người kiên gan bám trụ bấy giờ cũng từng ước ao bình dị là được nghe một tiếng trẻ. Nhưng rồi cuộc sống đã không ngừng sinh sôi nảy nở và những ước mơ nhọc nhằn nhất cũng đã lùi về quá khứ. Mo Ray có lẽ là vùng đất cuối cùng ở Bắc Tây Nguyên mà tiếng trẻ thơ còn gợi lên trong lòng người một niềm xao xuyến thế.
NGỌC TẤN

Có thể bạn quan tâm

Tháng năm nhớ Người

Tháng năm nhớ Người

(GLO)- Bài thơ “Tháng năm nhớ Người” của Lenguyen khắc họa hình ảnh Bác Hồ qua ký ức làng quê, tình mẹ, giọt lệ, hương sen và ánh nắng Nam Đàn,... như lời tri ân sâu lắng dành cho vị Cha già kính yêu của dân tộc suốt đời vì dân, vì nước.

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

(GLO)- Từ ngày 16 đến 20-5, gần 40 ca sĩ, diễn viên, nghệ nhân Gia Lai đã tham gia 2 sự kiện vô cùng ý nghĩa tại tỉnh Nghệ An. Đó là hội diễn nghệ thuật quần chúng “Tiếng hát Làng Sen” và triển lãm “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” năm 2025.

Khai mạc triển lãm ảnh “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”

Khai mạc triển lãm ảnh “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”

Nhân kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2023); 47 năm Ngày Quốc tế Bảo tàng (18/5/1978 - 18/5/2025), sáng 12-5, Bảo tàng tỉnh Bình Định phối hợp Bảo tàng Quang Trung khai mạc triển lãm ảnh chủ đề “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.