Nguyên liệu “không đụng hàng”
Cứ vào đầu mùa khô cao nguyên, khi những bụi dứa dại vươn ra những chiếc lá đủ dài, đủ “già” thì người dân nơi đây lại bắt đầu thu hoạch lá về đan chiếu. Qua 1 năm sinh trưởng, mỗi chiếc lá dứa dại dài trên dưới 3 m, hai bên mép lá và lưng lá chĩa ra đầy gai nhọn. Sau khi chặt phiến lá xuống, bà H’Dyế cẩn thận dùng rựa róc lớp gai để đỡ bị thương tích khi bó lá, vận chuyển về nhà.
Bà con nơi đây khá sáng tạo khi dùng dây cước để chia dọc phiến lá ra thành từng sợi “nan” dài, mỗi lá cho 8 “nan” đều tăm tắp. Cứ vậy, bà H’Dyế hoàn thành công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ rất mực rồi phơi tất cả lên dây. Với cái nắng gắt vùng này, chỉ cần khoảng 3 ngày là sợi “nan” biến hóa từ màu xanh mướt sang sắc vàng rơm. Nguyên liệu khô hoàn toàn song vẫn giữ độ dẻo dai, có thể để dành đan dần đến tận mùa mưa năm tới.
Thấy chúng tôi muốn "mục sở thị" công đoạn đan chiếu, bà H’Dyế lấy ra bó “nan”, vừa đan vừa cho hay: Ngày còn là một cô gái, bà học theo mẹ, theo chị đan chiếu. Phụ nữ Jrai hồi ấy không biết đan chiếu thì khó lấy chồng, bởi theo tiêu chuẩn của đàn ông Jrai, người vợ có thể không xinh đẹp nhưng phải đảm đang.
Khi làm chiếu, người đan ngồi trên một chiếc ghế gỗ thật thấp, vận dụng cả tay và chân để vừa đan vừa giữ các mối sợi. Quan sát thì thấy đây là cách đan nong mốt phổ biến trong nghệ thuật mây tre đan, song chính nguyên liệu mềm mại, chắc bền và… “không đụng hàng” từ lá dứa dại mới làm nên sự khác biệt của sản phẩm, khiến cho người dùng cảm nhận rõ hè mát, đông ấm.
Sợi “nan” dài cũng giúp người thợ ít phải tốn công giấu mối nối. Nhờ sự khéo léo, cả 2 mặt của tấm chiếu đều tinh tế, chỉ có thể phân biệt trái-phải thông qua mép chiếu.
Nhờ giỏi nghề nên chiếu do bà H’Dyế đan thường được người dân các làng khác, có nơi cách đó vài mươi cây số, tìm đến đặt mua về dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Tùy vào kích cỡ (1,2x1,8 m hoặc 1,6x2 m) mà chiếu có giá từ 400 đến 600 ngàn đồng/chiếc. Nếu tập trung toàn bộ thời gian cho công việc, người phụ nữ 50 tuổi này có thể đan xong 1 chiếc chiếu nhỏ trong vòng 2 ngày.
Gian nan giữ nghề
Ngoài công năng nói trên, chiếu pran còn hàm chứa những nét phong tục, tập quán văn hóa lâu đời. Ngồi cạnh trò chuyện, chị Rmah Bít-Bí thư Chi bộ làng Sung-cho biết: Đan chiếu pran là nghề truyền thống từ xa xưa của đồng bào Jrai vùng này. Mỗi người đều lớn lên trên tấm chiếu pran thân thuộc, và theo phong tục thì khi mất đi cũng phải được bao bọc bởi tấm chiếu ấy. Vì vậy, chiếu pran luôn có chỗ đứng trong đời sống cộng đồng.
Song theo chị Bít, đến giờ, vùng nguyên liệu dần bị thu hẹp do người dân phá cây dứa dại để trồng các loại cây mang lại lợi nhuận kinh tế cao hơn như cà phê; hiện chỉ có người dân làng Sung là còn duy trì nghề truyền thống này.
Kể về một người cùng làng cũng rất giỏi nghề, bà H’Dyế dẫn chúng tôi sang nhà bà Rơ Châm Chek gần đó. Nghe hỏi đến chiếu pran, bà Chek liền vào nhà lấy ra khoe 5 chiếc chiếu mới làm xong. Rảnh rỗi là bà đan sẵn, chỉ chờ người mua.
Với phụ nữ vùng này, làm chiếu là nghề thủ công khá phù hợp, vừa sức, góp phần giúp gia đình vượt qua những lúc khó khăn. Trước kia, nhờ có chiếu pran mà họ đổi được quần áo, chăn mền, thóc lúa. Giờ đây, nghề này vẫn giúp mang lại thêm một phần thu nhập bên cạnh nguồn thu hàng năm từ vườn rẫy.
Cả làng Sung có 167 hộ thì hộ nào cũng có người biết đan chiếu pran, song đáng tiếc là do vấn đề nguyên liệu như đã nói ở trên mà nghề càng bó hẹp. Một lý do quan trọng hơn, đó là lớp trẻ không mấy mặn mà với nghề truyền thống. Bà H’Dyế có 2 người con gái nhưng không ai muốn theo học; bà Chek thì chỉ có 2 cậu con trai. Chưa kể chiếu cói, chiếu nhựa ngày càng phổ biến.
Từ niềm tiếc nuối nét văn hóa có nguy cơ mai một, Bí thư Chi bộ làng Sung cho hay: Việc đề xuất để xã tổ chức những lớp tập huấn, truyền dạy nghề đan chiếu pran là điều cần tính tới.
Không chỉ giữ gìn bản sắc, cần nhìn xa hơn để thấy rằng đây còn là một sinh kế có thể mang lại nguồn thu nhập ổn định trong điều kiện các mặt hàng thủ công, đậm tính bản địa luôn được thị trường đón nhận.