Cúm lây nhiễm rất nhanh có thể gây dịch và đại dịch. Tỷ lệ lây lan càng mạnh khi tiếp xúc trực tiếp, đặc biệt ở nơi tập trung đông người như trường học, nhà trẻ.
Dễ lây trong môi trường tập trung đông người
Bộ Y tế khuyến cáo phòng và điều trị, ngừa biến chứng nặng, sau khi phát hiện ổ dịch sốt liên quan dịch cúm B ghi nhận tại H.Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Theo Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), các đại dịch cúm xảy ra có tính chu kỳ khoảng từ 10 - 40 năm. Riêng vi rút cúm B thường có chu kỳ dịch từ 5 - 7 năm, chỉ gây bệnh ở người.
|
Cúm dễ lây lan ở nơi tập trung đông người như trường học, nhà trẻ. Tiêm vắc xin cúm giúp phòng bệnh chủ động. Ảnh: Thúy Anh |
Cúm là bệnh có khả năng lây nhiễm rất cao và lây truyền nhanh, có thể gây dịch và đại dịch. Bệnh lây lan qua đường hô hấp, qua không khí có các giọt nhỏ nước bọt hay dịch tiết mũi họng của bệnh nhân chứa vi rút cúm phát tán khi ho, hắt hơi. Tỷ lệ lây lan càng mạnh khi tiếp xúc trực tiếp và mật thiết, đặc biệt ở nơi tập trung đông người như trường học, nhà trẻ. Trẻ em 5 - 9 tuổi có tỷ lệ mắc cúm cao nhất.
Sau khi bị bệnh, thời gian miễn dịch với vi rút cúm thường không bền, không bảo vệ được khỏi mắc các biến chủng của vi rút cúm.
Bác sĩ chỉ định thuốc kháng vi rút, kháng sinh theo diễn biến bệnh
Theo Bệnh viện Nhi T.Ư, phần lớn bệnh nhân mắc cúm B nhẹ tự khỏi, tuy nhiên vi rút này cũng có thể gây biến chứng nặng như viêm phổi (do vi rút cúm hoặc do bội nhiễm vi khuẩn). Các biến chứng nghiêm trọng như: viêm cơ tim, viêm não, viêm cơ tiêu cơ vân, suy đa cơ quan rất hiếm gặp.
Các gia đình cần đưa con đến bệnh viện khi trẻ nhiễm cúm B sốt cao (từ 39,5 độ C trở lên) và dùng thuốc hạ sốt và các phương pháp vật lý hạ nhiệt (phòng thoáng mát 26 - 29 độ C, chườm nước ấm tích cực) nhưng nhiệt độ không hạ.
Hoặc trẻ sốt cao từ 38,5 độ C trở lên quá 3 ngày không có xu hướng thuyên giảm; trẻ thở nhanh, thở bất thường: thở rít, khò khè, rút lõm lồng ngực, co kéo cơ hô hấp; mạch nhanh so với tuổi (khi trẻ không sốt) vân tím, lạnh chi (khi không sốt cao); trẻ không ăn, uống; trẻ có biểu hiện mất nước (môi se, mắt trũng, niêm mạc miệng/lưỡi khô, khát nước đòi uống nước, hoặc đi tiểu ít khi theo dõi thấy bỉm/tã ít ướt hơn bình thường); trẻ hay đổi ý thức (không chịu chơi, quấy khóc, li bì, co giật…); trẻ lớn thấy kêu đau bụng, đau ngực, nôn nhiều… hoặc cha, mẹ, người chăm sóc cảm thấy lo lắng bất an về trẻ.
Về điều trị các trẻ nhiễm cúm B có biến chứng nặng, PGS - TS - bác sĩ Tạ Anh Tuấn, Trưởng khoa Điều trị tích cực nội khoa Bệnh viện Nhi T.Ư, cho biết tùy thuộc tình trạng của trẻ khi thăm khám, các bác sĩ sẽ cho làm xét nghiệm cần thiết, từ đó đưa ra các chỉ định điều trị phù hợp.
"Ví dụ, những trẻ có nguy cơ cao, trẻ có các biến chứng sẽ được chỉ định dùng thuốc kháng vi rút (chỉ dùng cho những trường hợp sốt dưới 48 giờ); nếu có bội nhiễm vi khuẩn sẽ được dùng kháng sinh phù hợp. Nếu trẻ có suy hô hấp, tùy mức độ suy hô hấp sẽ được hỗ trợ hô hấp bằng thở ô xy hoặc thở máy; bù nước điện giải, điều trị suy tim nếu có", bác sĩ Tạ Anh Tuấn lưu ý.
Để chủ động phòng, chống bệnh cúm mùa, bảo vệ sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng, người dân khi có triệu chứng ho, sốt, sổ mũi, đau đầu, mệt mỏi, không tự ý làm xét nghiệm và mua thuốc điều trị tại nhà, cần liên hệ với cơ sở y tế để được tư vấn, khám và xử trí kịp thời. | Theo Cục Y tế dự phòng, trẻ nhỏ và người từ 65 tuổi nên tiêm phòng cúm, nếu từng nhiễm vi rút này, miễn dịch không bền sau khi khỏi bệnh. Ảnh: Thúy Anh |
Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi. Đeo khẩu trang, rửa tay bằng xà phòng và nước sạch hoặc dung dịch sát khuẩn tay (nhất là sau khi ho, hắt hơi). Không khạc nhổ bừa bãi nơi công cộng. Để phòng bệnh hiệu quả, vắc xin phòng cúm nên tiêm trước mùa cúm. Lưu ý, những người nên tiêm vắc xin cúm hàng năm là những người có nguy cơ mắc bệnh cúm và có nguy cơ có biến chứng cao của bệnh cúm như: trẻ em từ 6 đến 23 tháng và những người từ 65 tuổi trở lên… (Cục Y tế dự phòng Bệnh viện Nhi T.Ư, Bộ Y tế) |
Theo Liên Châu (TNO)