Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, giải pháp đột phá chiến lược

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

(GLO)- Lời Tòa soạn: Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 20-1-2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai khóa XVI về chuyển đổi số (CĐS) đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã khẳng định: Chuyển đổi số là giải pháp đột phá chiến lược, với bước đi và lộ trình phù hợp là cơ hội để tỉnh bứt phá trong phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng-an ninh. Xung quanh nội dung này, P.V Báo Gia Lai đã phỏng vấn đồng chí Trương Hải Long-Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng ban Chỉ đạo CĐS tỉnh.

* P.V: Thưa đồng chí, thời gian qua, công tác CĐS trên địa bàn tỉnh được thực hiện như thế nào?

- Chủ tịch UBND tỉnh TRƯƠNG HẢI LONG: Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3-6-2020 phê duyệt “Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, UBND tỉnh đã kịp thời ban hành Kế hoạch thực hiện chương trình CĐS quốc gia trên địa bàn tỉnh. Với quan điểm thực hiện CĐS là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, Ban cán sự Đảng UBND tỉnh đã tham mưu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XVI) ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 20-1-2022 về CĐS đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, tạo cơ sở vững chắc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị tỉnh cho việc thực hiện CĐS.

Ngày 12-5-2022, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình hành động số 921/UBND-CTHĐ về triển khai thực hiện Nghị quyết số 04, trong đó giao nhiệm vụ cho các đơn vị, địa phương theo chức năng, phạm vi quản lý của mình xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức triển khai. Hiện nay, tất cả các sở, ban, ngành, địa phương thuộc tỉnh đều đã ban hành kế hoạch thực hiện cho giai đoạn 2021-2025 với các mục tiêu, giải pháp cụ thể.

Thay mặt UBND tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Trương Hải Long (hàng trước, bên phải) ký kết hợp tác chuyển đổi số với Tập đoàn VNPT giai đoạn 2023-2025. Ảnh: H.D

Thay mặt UBND tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Trương Hải Long (hàng trước, bên phải) ký kết hợp tác chuyển đổi số với Tập đoàn VNPT giai đoạn 2023-2025. Ảnh: H.D

Bám sát quan điểm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ “CĐS trước tiên là chuyển đổi nhận thức”, ngay sau khi Nghị quyết số 04 và Chương trình hành động số 921 được ban hành, UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị quán triệt với sự tham dự của lãnh đạo UBND tỉnh, lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể, UBND các huyện, thị xã, thành phố và UBND cấp xã bằng hình thức trực tuyến với sự tham dự của khoảng 500 đại biểu ở tất cả các điểm cầu.

Chuyển đổi số được tỉnh thực hiện trên 3 trụ cột chính là: CĐS trong cơ quan nhà nước, phát triển chính quyền số; phát triển kinh tế số, CĐS trong doanh nghiệp; phát triển xã hội số, đẩy mạnh CĐS trong Nhân dân với phương châm “Người dân, doanh nghiệp vừa là trung tâm, là chủ thể vừa là mục tiêu, là động lực của CĐS”. Trong đó, tỉnh cũng xác định các cơ quan nhà nước phải là đầu tàu trong CĐS, tập trung phát triển chính quyền số để dẫn dắt kinh tế số và xã hội số phát triển.

Với quan điểm đó, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo nâng cao mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật CNTT tại các cơ quan nhà nước; nâng cấp, phát triển các nền tảng, hệ thống thông tin phục vụ phát triển CĐS từ tỉnh đến cơ sở đã được đầu tư trong giai đoạn trước như: hệ thống mạng diện rộng của tỉnh; hệ thống hội nghị truyền hình từ tỉnh đến 220 UBND cấp xã; triển khai hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính, đẩy mạnh cung cấp các dịch vụ công trực tuyến; Hệ thống thông tin báo cáo; nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu của tỉnh; hệ thống quản lý văn bản và điều hành liên thông 4 cấp (hiện có hơn 800 đơn vị sử dụng, trung bình mỗi năm có hơn 2 triệu lượt văn bản điện tử được gửi, nhận liên thông)... Đồng thời, tiếp tục phát triển các cơ sở dữ liệu, triển khai các hệ thống thông tin theo kiến trúc chính quyền điện tử của tỉnh (phiên bản 2.0) và kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu theo các yêu cầu, chỉ đạo từ trung ương như: tích hợp, khai thác các ứng dụng từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; triển khai kho dữ liệu, cơ sở dữ liệu dùng chung, chuyên ngành và cơ sở dữ liệu mở; triển khai nền tảng tổng hợp phân tích xử lý dữ liệu; cổng dữ liệu mở; nền tảng trợ lý ảo phục vụ cán bộ, công chức, người dân, doanh nghiệp... Cùng với đó là việc triển khai các giải pháp nâng cao năng lực đảm bảo an toàn thông tin; tăng cường phát triển nguồn nhân lực cho CĐS... Tiếp tục triển khai Đề án “Xây dựng TP. Pleiku theo hướng đô thị thông minh” gắn với việc CĐS, làm mô hình điểm để đánh giá, lựa chọn các dịch vụ đô thị thông minh phù hợp để nhân rộng ra các địa phương khác của tỉnh.

Kỹ thuật viên xử lý thông tin, hình ảnh qua camera tại Trung tâm Điều hành đô thị thông minh TP. Pleiku. Ảnh: Đ.T

Kỹ thuật viên xử lý thông tin, hình ảnh qua camera tại Trung tâm Điều hành đô thị thông minh TP. Pleiku. Ảnh: Đ.T

Đối với kinh tế số, UBND tỉnh chỉ đạo các ngành, địa phương tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp CĐS; triển khai các chương trình khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ứng dụng công nghệ số; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về kinh phí để đầu tư, sử dụng các nền tảng số phục vụ sản xuất, kinh doanh. Đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử (tỷ trọng doanh thu thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ ước đạt 7,2%), triển khai các chương trình tập huấn, hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã tiếp cận thương mại điện tử, hỗ trợ các hộ kinh doanh, người nông dân đưa các sản phẩm nông sản, các sản phẩm OCOP lên sàn thương mại điện tử... Khuyến khích người dân, doanh nghiệp sử dụng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt; triển khai sử dụng hóa đơn điện tử đến tất cả doanh nghiệp, hộ kinh doanh... Ngoài ra, tỉnh cũng ban hành các chương trình, kế hoạch phát triển các doanh nghiệp công nghệ số để từng bước hình thành, phát triển các doanh nghiệp đủ năng lực tham gia vào tiến trình CĐS của tỉnh.

Xã hội số cũng có những bước phát triển tích cực: hạ tầng và dịch vụ bưu chính, viễn thông phát triển cả về số lượng và chất lượng; đã phủ điểm phục vụ bưu chính có người phục vụ tại 100% xã thuộc tỉnh; 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh được kết nối cáp quang đến trung tâm; phủ sóng điện thoại 3G, 4G đến thôn, làng; người dân đã dần hình thành thói quen, phương thức giao tiếp với các cơ quan nhà nước thông qua các hệ thống thông tin, chủ động tham gia vào các loại hình dịch vụ của xã hội số, hình thành văn hóa trên môi trường số. Để đẩy mạnh phát triển xã hội số, tỉnh đã thành lập và tổ chức tập huấn cho hơn 1.600 tổ công nghệ số cộng đồng (thôn, làng, tổ dân phố) với hơn 5.000 thành viên, làm nòng cốt để hỗ trợ người dân tiếp cận, nâng cao các kỹ năng số.

* P.V: Quá trình CĐS trên địa bàn tỉnh có những thuận lợi, khó khăn, thách thức gì, thưa đồng chí?

- Chủ tịch UBND tỉnh TRƯƠNG HẢI LONG: Chuyển đổi số được cả hệ thống chính trị quyết tâm thực hiện, nhiều chương trình, kế hoạch đã được ban hành, về “thể chế số” đã cơ bản đảm bảo cho việc triển khai; khung pháp lý, hành lang chính sách về CNTT, CĐS cũng tương đối đầy đủ... tạo cơ sở cho việc đẩy mạnh CĐS trên địa bàn tỉnh. Nhận thức về CĐS là xu thế tất yếu ngày càng nâng cao, mở rộng từ các cơ quan nhà nước đến doanh nghiệp và người dân, điều này tạo nên sự đồng thuận cao trong cả hệ thống chính trị, giúp cho việc đẩy mạnh CĐS, phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số ngày càng thuận lợi.

Công tác chỉ đạo, điều hành ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền số được các sở, ban, ngành, địa phương quan tâm, chú trọng. Việc xây dựng chính quyền điện tử của tỉnh ở giai đoạn trước được triển khai từ rất sớm và đạt được nhiều kết quả tích cực, đây là nền tảng quan trọng tạo thuận lợi cho thực hiện CĐS, xây dựng chính quyền số trong thời gian đến. Các cấp, các ngành ngày càng quan tâm, ưu tiên bố trí các nguồn lực cho CĐS; công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực cho CĐS ngày càng được chú trọng, hạ tầng công nghệ cần thiết để thực hiện CĐS ngày càng được quan tâm đầu tư, được lồng ghép trong nhiều chương trình, kế hoạch của tỉnh, nhất là 3 chương trình mục tiêu quốc gia đều có nội dung về CĐS.

Người dân làng Phung (xã Biển Hồ, TP. Pleiku) giới thiệu sản phẩm truyền thống lên các nền tảng xã hội. Ảnh: Đ.T

Người dân làng Phung (xã Biển Hồ, TP. Pleiku) giới thiệu sản phẩm truyền thống lên các nền tảng xã hội. Ảnh: Đ.T

Điều quan trọng hàng đầu và cũng là khó khăn, thách thức lớn, đó là làm sao để có nhận thức đúng, đầy đủ về nội hàm, bản chất của CĐS để quyết tâm đổi mới tư duy và hành động thực hiện CĐS. Đối với các cơ quan nhà nước, đó là sự thay đổi nhận thức và sự vào cuộc thực sự, dám nghĩ, dám làm của người đứng đầu. Đối với xã hội, trước mắt là đòi hỏi về kỹ năng số của người dân và sau đó là thói quen và văn hóa sống trong môi trường số. Đối với doanh nghiệp là sự thay đổi trên cơ sở phải triển khai, áp dụng các giải pháp công nghệ số, có những việc hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ.

Giai đoạn 2021-2022 là thời kỳ đầu Chính phủ đẩy mạnh việc chỉ đạo về triển khai CĐS, Nghị quyết của Tỉnh ủy cũng ban hành vào năm 2022. Theo đó, thời gian này chủ yếu là hoạt động rà soát, ban hành các cơ chế, chính sách, chương trình kế hoạch thực hiện; các kết quả cụ thể vẫn chưa rõ nét. Một số bộ, ngành Trung ương vẫn chưa có các hướng dẫn, triển khai về CĐS trong ngành. Do vậy, địa phương cũng lúng túng trong việc thực hiện. Nhiều hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các cơ quan trung ương vẫn chưa triển khai hoặc chưa liên thông kết nối, chia sẻ dữ liệu với địa phương nên gây khó khăn cho tỉnh.

Gia Lai là địa phương còn nhiều khó khăn, chưa chủ động được nguồn thu, chủ yếu từ sự hỗ trợ của Trung ương, trong khi đó còn nhiều vấn đề về kinh tế-xã hội cấp bách cần ưu tiên; việc cân đối nguồn lực dành cho CĐS mặc dù được tỉnh rất quan tâm, nhưng vẫn còn hạn chế, chưa thể so sánh được với các tỉnh, thành phố khác.

Địa bàn của tỉnh rộng, dân cư phân bố không đồng đều, nhiều vùng là miền núi, vùng sâu, vùng xa nên việc phát triển hạ tầng số, hạ tầng viễn thông, phủ sóng di động băng rộng còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ người dân có máy tính, điện thoại thông minh, thiết bị bảo đảm kết nối, sử dụng các nền tảng số còn thấp. Bên cạnh đó, trình độ, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin của người dân trên địa bàn tỉnh còn thấp so với mặt bằng chung cả nước, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, việc tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục thông minh; thói quen và điều kiện hoạt động trên môi trường số của người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn có khoảng cách lớn so với khu vực đô thị.

Cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn về CNTT của tỉnh còn yếu và thiếu; nhân lực này trong các cơ quan nhà nước thường xuyên biến động, trong khi chưa có các hướng dẫn từ trung ương nên tỉnh chưa ban hành được các chính sách đãi ngộ, thu hút đối với nguồn nhân lực chất lượng cao về CNTT.

Đoàn viên, thanh niên TP. Pleiku hướng dẫn người dân cài đặt ứng dụng dịch vụ công trực tuyến. Ảnh: P.L

Đoàn viên, thanh niên TP. Pleiku hướng dẫn người dân cài đặt ứng dụng dịch vụ công trực tuyến. Ảnh: P.L

Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT tại tỉnh rất ít, chủ yếu kinh doanh thiết bị CNTT, viễn thông; chưa có doanh nghiệp công nghệ số đủ năng lực, kinh nghiệm tham gia, thúc đẩy CĐS của địa phương. Hoạt động CĐS trong sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, chưa rõ nét; hoạt động sản xuất kinh doanh trên môi trường mạng chưa phát triển mạnh.

Công nghệ số phát triển rất nhanh chóng, CĐS cũng đòi hỏi sự thay đổi mạnh mẽ, đáp ứng kịp thời. Tuy nhiên, việc triển khai các nền tảng, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu dùng chung, dữ liệu mở vẫn chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Các nền tảng số ở các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực như: y tế, giáo dục, an sinh xã hội... còn thiếu hoặc chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Dữ liệu còn phân tán, chưa được số hóa còn rất nhiều, chưa được kết nối, chia sẻ hiệu quả. An toàn an ninh mạng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, trong khi nhiều nơi vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

* P.V: Để đẩy mạnh CĐS, tỉnh có những định hướng, giải pháp như thế nào, thưa đồng chí?

- Chủ tịch UBND tỉnh TRƯƠNG HẢI LONG: Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, cần sự vào cuộc một cách tích cực của cả hệ thống chính trị; sự lãnh đạo của các cấp ủy, quản lý của cơ quan nhà nước, hành động đồng bộ ở các cấp và sự tham gia của toàn xã hội. Đây là yếu tố bảo đảm cho sự thành công của CĐS.

Về định hướng, tỉnh tập trung CĐS ở 3 trụ cột là chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó, chính quyền số làm đầu tàu dẫn dắt, thúc đẩy kinh tế số, xã hội số phát triển. Với quan điểm xuyên suốt, CĐS phải lấy người dân làm trung tâm, thực sự tạo ra cơ hội, giá trị mới để thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Do vậy, tỉnh xác định các lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hàng ngày tới người dân và doanh nghiệp, mang lại hiệu quả cao, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh để ưu tiên thực hiện. Trên cơ sở đó, một số lĩnh vực đã được xác định ưu tiên CĐS trong giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 như: y tế, giáo dục và đào tạo, nông nghiệp, giao thông-vận tải và logistics, công nghiệp và năng lượng, tài nguyên và môi trường, du lịch.

Chuyển đổi số là một hành trình dài, nhưng cũng cần phân chia các giai đoạn thực hiện. Nghị quyết số 04 cũng đã đề ra các mục tiêu cụ thể cho giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030. Để hoàn thành các mục tiêu này, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung vào một số giải pháp mang tính căn cơ.

Môi trường pháp lý, thể chế, chính sách cho CĐS đóng vai trò vô cùng quan trọng, trong khi đó, sự phát triển của công nghệ, nhất là công nghệ số diễn ra nhanh chóng. Do vậy, các cơ chế pháp lý, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy CĐS cần được thường xuyên rà soát, ban hành, điều chỉnh, bổ sung kịp thời.

Chuyển đổi số thực hiện ở tất cả các cấp, các ngành. Các đơn vị, địa phương cần có các chương trình, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn, cụ thể; việc triển khai phải được các ngành, địa phương chủ động thực hiện và phải bám sát mục tiêu, chỉ đạo của Trung ương, của Chính phủ và phù hợp với tình hình, điều kiện thực tế. Trong thực hiện cũng cần thử nghiệm, thí điểm đối với những nội dung hoàn toàn mới và có đánh giá, rút kinh nghiệm trước khi thực hiện chính thức, nhân rộng.

Chuyển đổi số luôn phải gắn với đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng. Ảnh: Đ.T

Chuyển đổi số luôn phải gắn với đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng. Ảnh: Đ.T

Nhận thức đầy đủ về CĐS, tạo sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị và trong quần chúng nhân dân có ý nghĩa then chốt trong quá trình thực hiện. Công tác thông tin, tuyên truyền cần phải thực hiện tốt, từ đó nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ, công chức, viên chức, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về CĐS. Người đứng đầu chính quyền các cấp chịu trách nhiệm trực tiếp về CĐS trong cơ quan, đơn vị, tổ chức, lĩnh vực, địa bàn phụ trách; tiên phong trong việc CĐS để nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của địa phương, đơn vị mình; lấy việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 04, Chương trình hành động số 921 là một trong những tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của người đứng đầu chính quyền các cấp.

Yếu tố con người đóng vai trò mang tính quyết định. Do vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho CĐS cần được thực hiện thường xuyên, liên tục. Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất, ban hành các chính sách ưu đãi, đãi ngộ để thu hút nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực CNTT, CĐS. Từng bước phổ cập kiến thức, kỹ năng CNTT đến đông đảo người dân thông qua các nền tảng đào tạo mở (Bộ Thông tin và Truyền thông đang chủ trì triển khai) và phát huy tốt vai trò, nâng cao hoạt động của các tổ công nghệ số cộng đồng.

Đẩy mạnh triển khai các chương trình thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa CĐS; tạo điều kiện thuận lợi để hình thành, phát triển các doanh nghiệp công nghệ số đủ năng lực tham gia vào quá trình CĐS của địa phương. Nâng cao hiệu quả phục vụ hành chính công, triển khai các chính sách khuyến khích người dân khai thác, sử dụng các hệ thống thông tin giao tiếp với các cơ quan nhà nước.

Huy động các nguồn lực thực hiện CĐS, lồng ghép nguồn lực từ các chương trình, đề án có liên quan. Trong đó, nguồn lực nhà nước đóng vai trò dẫn dắt, kích thích sự tham gia, đóng góp từ các doanh nghiệp, người dân. Kinh phí từ ngân sách nhà nước ưu tiên để phục vụ các nhiệm vụ, dự án CĐS do cơ quan nhà nước chủ trì và cho các nhiệm vụ đảm bảo an toàn, an ninh mạng, các hoạt động thúc đẩy phát triển và đổi mới sáng tạo trong môi trường số. Huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân thông qua các chính sách khuyến khích, thu hút doanh nghiệp công nghệ số đầu tư phát triển CĐS. Đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ từ các tập đoàn công nghệ, doanh nghiệp viễn thông có năng lực, kinh nghiệm về CĐS (Tập đoàn VNPT, Tập đoàn Viettel, Tập đoàn FPT…). Đây là nguồn lực xã hội hóa quan trọng phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước trong khi điều kiện các nguồn lực của tỉnh còn nhiều khó khăn.

Phát triển các mô hình kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp như: triển khai các mô hình thử nghiệm triển khai các nền tảng, hệ thống thông tin từ nguồn kinh phí của doanh nghiệp thông qua các thỏa thuận hợp tác; ưu tiên sử dụng hình thức thuê dịch vụ CNTT; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tập trung triển khai các hệ thống thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Chuyển đổi số luôn phải gắn với đảm bảo an toàn thông tin, an ninh mạng. Công tác này phải được thực hiện thường xuyên, liên tục theo phương châm ngăn chặn, phòng ngừa là chính, phải luôn sẵn sàng các phương án, nhân lực ứng phó, xử lý kịp thời các sự cố an toàn thông tin xảy ra. Đồng thời, các cấp, các ngành tăng cường phối hợp trong công tác quản lý nhà nước, để xây dựng không gian mạng lành mạnh, an toàn, giữ vững an ninh trật tự phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

* P.V: Trân trọng cảm ơn đồng chí!

Có thể bạn quan tâm

Nghiệm thu đề tài xây dựng quy trình trồng sâm non bằng phương pháp khí canh

Nghiệm thu đề tài xây dựng quy trình trồng sâm non bằng phương pháp khí canh

(GLO)- Chiều 22-4, Hội đồng Khoa học và Công nghệ chuyên ngành tỉnh Gia Lai nghiệm thu đề tài “Xây dựng quy trình trồng sâm non (sâm Hàn Quốc và Hồng đẳng sâm) bằng phương pháp khí canh tại Gia Lai”. Đề tài do Trường Đại học Tôn Đức Thắng chủ trì, Tiến sĩ Ngô Việt Đức làm chủ nhiệm.