Ba Đa, Bến Cùng thời khói lửa chiến tranh

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Dưới mưa bom bão đạn, lũ trẻ con chúng tôi thời đó vẫn học hành và phụ giúp người lớn việc gia đình, thậm chí chống giặc bằng cả niềm vui hào hứng
Thôn Ba Đa thuộc xã Nghĩa Ninh, TP Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Là một địa danh thuộc miền núi, cách trung tâm TP Đồng Hới khoảng 14 km, trong những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, người dân ở dọc hai bên sông Nhật Lệ lên Ba Đa ở để tránh pháo địch từ tàu chiến bắn vào.
Dưới hầm chữ A
Thời đó, Ba Đa, Bến Cùng ngày đêm bị bom, rốc-két của Mỹ dội xuống, bởi nơi đây xe xích kéo pháo của bộ đội ẩn nấp, là tuyến đường giao thông quan trọng của hậu phương tiếp tế đạn dược cho miền Nam đánh Mỹ. Để bảo đảm an toàn tính mạng cho gia đình mình, người dân ở đây đào hầm chữ A tránh bom. Hầm có kèo là hai cột gỗ to rắn chắc đóng lại thành hình chữ A và dựng cách nhau từ 0,8-1,2 m, được lợp lên mái bằng ván hay những cây gỗ nhỏ xếp chồng nhau, trên đó là bỏ lá cây vộc (loại cây thân màu nâu mà người dân dùng làm vành nón), rồi lấp đất.
Vì hầm đào sâu xuống đất từ 2-2,5 m nên mùa mưa nhiều hầm bị mạch nước ngầm ứa ra, người dân phải đóng sàn cao. Do đó, khi vào ngủ chỉ trườn người theo tư thế nằm và khi ngồi dậy thì phải cúi gập người xuống, kẻo đầu va vào thành hầm. Có nhiều gia đình không làm sàn thì vào mùa mưa phải cử người thức tát nước. Mùa mưa đã khổ, mùa nắng lại cực hơn bởi cái nóng hành hạ.
Do diện tích hầm có hạn, lượng người lại đông, nắp hầm phải đậy kín nên gió không vào được làm căn hầm nóng nực, người lớn tay luôn cầm quạt cho trẻ con. Nhiều gia đình do trẻ con kêu khóc quá nhiều và quạt quá nhiều nên cánh quạt loại xòe ra, gấp vào cũng bị rách. Để có quạt bảo đảm chất lượng, người dân đã nảy ra sáng kiến là dùng cây đương hay tre chẻ ra thành sợi mỏng đan thành quạt hoặc chẻ dày để đan thành hình và cắt giấy dán lên.
Có gia đình thì sáng kiến làm quạt kéo dưới hầm, loại quạt này được làm bằng một tấm bìa cứng, phía trên buộc hai sợi dây vào kèo thành hầm, phía dưới, mặt chính giữa buộc sợi dây dài để cầm kéo. Khi mảnh bìa chuyển động là tạo ra luồng gió.
Thường cạnh miệng hầm là những mâm cơm của gia đình, để khi máy bay địch ném bom là tất cả mọi người xuống hầm cho nhanh. Ở Ba Đa, Bến Cùng này, ban đêm máy bay địch hay thả bom cháy, bom napal, bom bi vào các lùm cây nhằm tìm và đánh phá các xe xích kéo pháo của bộ đội ta. Vì vậy, vào khoảng 18 giờ là tất cả mọi người phải xuống hầm ẩn nấp. Nhờ thiết kế hầm chữ A kiên cố mà người dân được an toàn. Chỉ có gia đình nào bị bom Mỹ dội đúng giữa nóc hầm thì mới thiệt mạng, còn bom cách hầm từ 20 m thì cũng chỉ bị thương.

Nhà văn hóa thôn Ba Đa - nơi đây từng là hầm trú bom thời chống Mỹ
Nhà văn hóa thôn Ba Đa - nơi đây từng là hầm trú bom thời chống Mỹ
Học và chơi dưới bom đạn
Thời đó, chúng tôi ở tuổi 9-10, đang học tiểu học nhưng đã tham gia nhiều hoạt động của lũ trẻ con trong việc sinh hoạt, học tập và giúp đỡ gia đình. Đó là những kỷ niệm sâu sắc nhất mà dù đã 53 năm nhưng khi nhớ lại thời khói lửa ấy, trong đầu tôi đã tái hiện những thước phim rõ nét, như mới xem hôm qua.
Ngày đó, lũ trẻ con chúng tôi phải học ở dưới hầm. Hầm học không phải thiết kế theo kiểu hầm chữ A mà vài hầm được đóng thành khung vuông và chỉ đào sâu 1 m. Xung quanh hầm đắp đất và ngụy trang bằng đất cỏ tươi để máy bay địch khỏi phát hiện. Theo thiết kế, hầm chỉ tránh được bom sát thương hay mảnh bom chứ không tránh được sức công phá của bom tạ, bom tấn của Mỹ. Vì vậy, mỗi lần máy bay địch dội bom tấn, bom tạ xuống là chúng tôi phải chạy sang hầm chữ A cạnh đó.
Máy bay Mỹ không chỉ ném bom đánh phá mà còn thả chất độc hóa học. Để tránh ngộ độc, dưới hầm của các hộ gia đình cũng như của lớp học đều có vài quả bí đao. Khi phát hiện máy bay địch rải chất độc hóa học là mọi người cắt quả bí đao ra đưa lên che miệng, lỗ mũi.
Lũ học sinh chúng tôi khi đến trường phải mang theo túi đựng bông, băng, thuốc đỏ, lọ nước tro trong, lọ nước vôi trong cùng hai cặp nẹp bằng gỗ hay bằng tre dài bằng cẳng chân và bằng cánh tay mới được vào lớp. Các thầy cô luôn dặn chúng tôi: "Khi nào trên đường đến trường, các em có bị thương thì tự lấy các thứ đó để băng vết thương hay cố định nẹp vào tay, chân khi bị gãy. Còn lọ nước tro trong và lọ nước vôi trong tẩm vào bông băng, bịt vào miệng, mũi để chống chất độc hóa học".
Cũng nhờ chuẩn bị chu đáo như vậy nên trong lớp có 3 bạn trên đường đến trường, mảnh bom Mỹ làm bị thương nhưng các bạn đã tự băng bó, không bị thương tổn nặng.
Điều lũ trẻ xóm chúng tôi vui nhất là chạy đi lấp vết xe xích kéo pháo của bộ đội. Thường buổi tối, máy bay địch thả pháo sáng, sáng rực trời, sau đó là tiếng máy bay phản lực bay qua kèm theo âm thanh cắc bụp, cắc bụp, cắc bụp… nối nhau, từ to đến nhỏ dần. Đó là tiếng máy ảnh trên máy bay địch chụp xuống mặt đất để tìm vết hằn của bánh xe xích kéo pháo. Từ đó, chúng xác định tọa độ của xe, chỉ điểm cho máy bay ném bom.
Nhằm làm cho máy bay địch khỏi phát hiện chỗ ẩn nấp của xe xích kéo pháo, chúng tôi buổi chiều nào không phải đến lớp là rủ nhau lên gần các lùm cây để lấp các vết bánh xe. Mỗi đứa cầm trên tay chiếc xẻng nhỏ và cái chổi. Khi thấy có vết xe là dùng xẻng lấp đất lại, sau đó lấy chổi quét xóa dấu vết.
Để tạo không khí sôi nổi, chúng tôi thường đề ra chỉ tiêu thi đua bằng cách phân cho mỗi đứa một đoạn, ai lấp xong trước được cưỡi lên lưng đứa bạn lấp xong sau cùng. Vì vậy, không khí vui nhộn hẳn lên. Vui nhất là khi có bạn cưỡi không nổi, cứ cõng bạn mình lên, lại gục xuống hay bị phải cõng nhiều lần... làm cả bọn cười vỡ bụng!
Tuổi thơ, rau má và những trận cười
Thời đó, gạo khan hiếm, mỗi gia đình có đến 6-7 nhân khẩu nhưng một bữa ăn chỉ nấu được một lon gạo, bằng khoảng 0,35 kg. Vì vậy, ngoài việc dùng canh lá rau tàu bay theo mùa vụ, các gia đình quanh năm phải ăn rau má để làm ấm cái dạ dày.
Nhu cầu sử dụng rau má quá lớn nên những đám rau má nằm trên các miệng hố bom hay nương sắn quanh thôn, xóm cũng cạn kiệt. Chúng tôi phải đi lấy rau má cách nhà trên 4-5 km, có khi xa hơn. Có những lúc lũ trẻ chúng tôi đi qua các tuyến đường đất đỏ mà máy bay địch ném bom. Cứ mỗi chuyến lấy rau má xa nhà, chúng tôi rủ nhau một tốp khoảng 6-7 đứa cùng đi. Phương tiện của chúng tôi là chiếc bay, dao và rổ, thúng. Vốn người nhỏ bé, tay ngắn nên mỗi khi có rau, chúng tôi không bê rổ kẹp vào nách như người lớn mà phải đội trên đầu.
Chuyện đội rau cũng gây ra nhiều trận cười vỡ bụng. Vốn là, sau khi xủi rau bỏ vào rổ, để rau sạch hết bụi, đất, chúng tôi đưa rau xuống suối rửa. Vì đường xa nên chúng tôi không đợi ráo hết nước mà vội đội rau lên đầu để về. Đối với những đứa rửa rau chưa sạch, nước còn đọng lại trên lá rau chảy xuống cả đầu, lan xuống mặt, kéo theo là vết nâu hay vàng của đất trông như mặt mèo.
Có nhiều lần, đoàn chúng tôi đi trên đường đất đỏ, máy bay của địch nhào xuống thả bom. Tiếng rít của quả bom bay qua đầu vang lên giữa núi rừng thâm u, tất cả không ai bảo ai, như có phản xạ không điều kiện, đều nhào sang lùm cây cạnh đường, hai tay vẫn giữ chặt thúng, rổ rau trên đầu, mặc dù rau bị bắn rơi vãi khắp nơi. Im tiếng bom nổ là chúng tôi vội nhặt rau rơi vãi và chạy nhanh trên đường.
Khi tiếng máy bay phản lực nhào tới, là tất cả lại như con sóc lao người sang mặt đường, hai tay vẫn giữ chặt cái thúng, cái rổ rau má trên đầu. Nhờ có phản xạ ấy mà có lần mảnh bom nhiều cạnh sắc lẹm, nóng rực nằm trên rổ rau mà cả bọn chẳng ai bị gì. Sau mỗi lần như vậy, cả bọn cười vang... 
Bài và ảnh: TRẦN VĂN BÌNH (NLĐO)

Có thể bạn quan tâm

Cửu Trại Câu du ký

Cửu Trại Câu du ký

Nơi chúng tôi đến trong chuyến đi dài ngày lần này là vùng đất Cửu Trại Câu xinh đẹp, một trong những danh lam thắng cảnh của Tứ Xuyên, rất đắc địa về mặt phong thủy của Trung Hoa lục địa.

Những người 'vác tù và' bảo vệ rừng ở Yên Bái

Bảo vệ lá phổi xanh Mù Cang Chải

Dưới những tán rừng xanh ngát tại Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Mù Cang Chải ( Yên Bái), những năm trở lại đây, người dân xã Chế Tạo chủ động xã hội hóa từ nguồn dịch vụ môi trường rừng thành lập các tổ đội trực tiếp tuần tra, kiểm tra hàng tuần để bảo vệ những “lá phổi xanh” này.

Bảo vệ động vật hoang dã trên dãy Trường Sơn: Xuyên rừng tìm dấu chân thú

Bảo vệ động vật hoang dã trên dãy Trường Sơn: Xuyên rừng tìm dấu chân thú

Ẩn sâu dưới những tán rừng xanh thẳm của Vườn quốc gia Vũ Quang là thế giới đầy sống động của vô số loài động vật quý hiếm. Để sở hữu cánh rừng già cổ thụ với hàng nghìn loài động vật, có những “chiến binh” đang ngày đêm thầm lặng bảo vệ kho báu khổng lồ giữa đại ngàn Trường Sơn.

Sơn thếp cho chén vỡ hóa lành

Sơn thếp cho chén vỡ hóa lành

Bên đống bát đĩa vỡ toang, mọi người hì hụi chọn ra những cái tan nát nhất để thực hành một kỹ thuật thú vị trong nghệ thuật sơn ta, đó là thếp vàng - bạc, mục đích hàn gắn lại sản phẩm, che đi vết vỡ bằng kỹ thuật sơn thếp, dưới sự hướng dẫn của họa sĩ Nguyễn Xuân Lục.

Cán bộ an ninh gặp gỡ, tuyên truyền người dân không nghe kẻ xấu lôi kéo vượt biên. Ảnh: T.T

Buôn làng rộng lòng bao dung - Kỳ cuối: Thức tỉnh những người lầm lỡ

(GLO)-Giữa tháng 3-2024, Thiếu tướng Rah Lan Lâm-Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh cùng đoàn công tác của Bộ Công an có chuyến sang Thái Lan để gặp gỡ những người dân tộc thiểu số Việt Nam đang cư trú bất hợp pháp ở 2 địa điểm thuộc huyện Bang Yai, tỉnh Nonthaburi.

Hậu phương người lính - điều chưa kể

Hậu phương người lính - điều chưa kể

LTS: Chấp nhận dấn thân và hy sinh để bảo vệ đất nước, những người lính Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nêu cao ý chí quyết tâm gìn giữ, tỏa sáng hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ” nơi tuyến đầu gian khó. Song ít ai biết rằng, phía sau họ là hy sinh thầm lặng, những nỗi niềm canh cánh của người hậu phương.

'Bảo mẫu' đàn chim trời

'Bảo mẫu' đàn chim trời

Dựng trang trại trồng tre, nuôi vịt nhưng thấy đàn chim trời hàng nghìn con về trú ngụ, làm tổ, ông Nguyễn Mạnh Cường (Hà Tĩnh) đã dừng việc chăn nuôi, nhường vườn cây xanh tốt cho đàn chim trú ngụ, làm tổ.