200 năm nghiên cứu về khủng long: Vẫn còn nhiều bí ẩn chưa được giải mã

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
Năm 1824, các nhà khoa học đã xác định và đặt tên cho loài khủng long đầu tiên được biết đến là Megalosaurus, song 200 năm qua, các nghiên cứu về loài động vật cổ xưa này vẫn chỉ ở giai đoạn khám phá.
Các nhà cổ sinh vật học tin rằng Megalosaurus đi bằng hai chân. Ảnh: PA/AP

Các nhà cổ sinh vật học tin rằng Megalosaurus đi bằng hai chân. Ảnh: PA/AP

Trong năm 2024, Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London và Hiệp hội Địa chất của Anh sẽ tổ chức các sự kiện đặc biệt kỷ niệm 200 năm phát hiện và đặt tên cho loài khủng long đầu tiên - Megalosaurus. Đây là dịp để giới khoa học nhìn lại thành quả tri thức của lĩnh vực này trong hai thế kỷ qua.

Ngược thời gian trở về những năm 1600, các nhà khoa học thời kỳ này khi phát hiện những mảnh xương hóa thạch của một loài động vật khổng lồ ở các mỏ đá phiến ở Oxfordshire của Anh đã hết sức bất ngờ và bối rối.

Vào thời điểm khái niệm về “tiến hóa” và “sự tuyệt chủng” còn chưa xuất hiện, các nhà nghiên cứu cho rằng những hóa thạch này có thể thuộc về một con voi chiến La Mã, thậm chí có cả giả thuyết là hóa thạch của một người khổng lồ.

Mãi đến năm 1824, William Buckland, Giáo sư địa chất đầu tiên của Đại học Oxford, sau khi nghiên cứu các hóa thạch trên đã xác định và đặt tên cho loài này là Megalosaurus, hay thằn lằn lớn, dựa trên cấu trúc và kích cỡ của các hóa thạch xương hàm dưới, đốt sống và xương chi của loài này. (Megalosaurus có xương đùi lớn nhất dài 83,82cm với chu vi gần 25,5cm).

Hàm của Megalosaurus được mô tả trong một bản khắc dựa trên bản vẽ năm 1824 của Mary Morland. Ảnh: Alamy

Hàm của Megalosaurus được mô tả trong một bản khắc dựa trên bản vẽ năm 1824 của Mary Morland. Ảnh: Alamy

Trong bài nghiên cứu khoa học trình bày trước Hiệp hội Địa chất ở London vào ngày 20/2/1824, Giáo sư Buckland đã phân tích hình dạng răng của Megalosaurus và kết luận đây là loài động vật ăn thịt có chiều dài hơn 12m, có thể là loài lưỡng cư, sống được cả trên cạn và dưới nước.

Nhà Cổ sinh vật học Steve Brusatte của Đại học Edinburgh, tác giả cuốn “Sự trỗi dậy và tuyệt chủng của khủng long: Lịch sử mới về thế giới đã mất” đồng tình với những phán đoán của Giáo sư Buckland, cho rằng đây là một loài bò sát khổng lồ đã tuyệt chủng.

Như vậy, Megalosaurus chính là loài khủng long đầu tiên được biết đến, tuy nhiên, phải đến 20 năm sau đó, thuật ngữ "khủng long" mới được Nhà Giải phẫu học Richard Owen, người sáng lập Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở London đặt ra.

Ông sử dụng thuật ngữ này dựa trên những đặc điểm chung mà ông đã xác định được trong các nghiên cứu về Megalosaurus và hai loài khủng long khác là Iguanodon và Hylaeosaurus, được mô tả lần lượt vào các năm 1825 và 1833.

Nghiên cứu khoa học về Megalosaurus đã củng cố danh tiếng chuyên môn của Giáo sư Buckland trong lĩnh vực địa chất mới, nhưng về khía cạnh là "mô tả khoa học đầu tiên về khủng long" thì mãi sau này mới được nhìn nhận.

Vào thời điểm đó, hóa thạch xương riêng lẻ của Megalosaurus không thu hút được sự quan tâm đặc biệt như hóa thạch hoàn chỉnh của các loài bò sát biển khổng lồ như Ichthyosaur và Plesiosaur do Nhà Cổ sinh vật học Mary Anning phát hiện ở bờ biển Coast của Anh.

Tuy vậy, Megalosaurus đã để lại dấu ấn trong văn hóa đại chúng, truyền cảm hứng cho nhà văn Charles Dickens đưa vào phần mở đầu cuốn tiểu thuyết “Bleak House” (Ngôi nhà ảm đạm) xuất bản năm 1852.

Năm 1854, Megalosaurus là một trong ba mô hình khủng long được dựng ở Công viên Crystal Palace tại London - công viên khủng long đầu tiên trên thế giới và hiện vẫn còn đến ngày nay.

Mô hình khủng long Megalosaurus ở Công viên Crystal Palace ở London được dựng năm 1854. Các nhà cổ sinh vật học thời đó tin rằng sinh vật thời tiền sử này đi bằng bốn chân. Nguồn: Alamy Stock Photo

Mô hình khủng long Megalosaurus ở Công viên Crystal Palace ở London được dựng năm 1854. Các nhà cổ sinh vật học thời đó tin rằng sinh vật thời tiền sử này đi bằng bốn chân. Nguồn: Alamy Stock Photo

Mô hình Megalosaurus năm 1854 có hình dạng đầu khá chính xác, nhưng các nghiên cứu sau này cho thấy loài khủng long này dài khoảng 6 mét và đi bằng hai chân chứ không phải bốn chân.

Dù được phát hiện khi đã tuyệt chủng và từng bị xem là thất bại trong quá trình tiến hóa, thực tế khủng long đã tồn tại và phát triển trong 165 triệu năm - lâu hơn nhiều so với khoảng 300.000 năm con người sinh sống trên hành tinh này.

Ngày nay, khoảng 1.000 loài khủng long đã được đặt tên và mỗi năm có khoảng 50 loài khủng long mới được phát hiện.

Nhà Cổ sinh vật học Brusatte cho biết dù đã qua 200 năm nghiên cứu nhưng các nhà khoa học mới chỉ tìm thấy một phần rất nhỏ số khủng long từng sinh sống. Những nghiên cứu khoa học về loài sinh vật cổ xưa này vẫn chỉ đang ở trong giai đoạn khám phá.

Ông nói: “Loài chim ngày nay là hậu duệ của khủng long và hiện có hơn 10.000 loài chim đang tồn tại. Còn khủng long từng tồn tại trong 150 triệu năm, vì vậy có thể có tới hàng nghìn, thậm chí hàng triệu loài khủng long khác nhau.”

Vào những năm 1990, các hóa thạch được khai quật ở Trung Quốc đã tiết lộ rõ ràng rằng khủng long có lông vũ, xác nhận một giả thuyết rằng chúng là tổ tiên trực tiếp của loài chim.

Không chỉ các khám phá hóa thạch, các công nghệ mới như chụp cắt lớp (CT) và phương pháp tính toán hiện đại cũng cho phép các nhà cổ sinh vật học tái tạo và hiểu biết về khủng long chi tiết và chính xác hơn nhiều.

Ví dụ, trong các hóa thạch có lông vũ, việc bảo tồn các cấu trúc nhỏ gọi là melanosome, từng chứa sắc tố, cho phép các nhà khoa học so sánh chúng với cấu trúc lông của các loài chim hiện đại, từ đó biết được màu sắc ban đầu của lông vũ hóa thạch.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều chưa được khám phá về khủng long, chẳng hạn như tại sao khủng long lại phát triển với kích thước lớn như vậy, cũng như âm thanh mà chúng có thể tạo ra.

Có thể bạn quan tâm

Phát hiện rừng hóa thạch 390 triệu năm

Phát hiện rừng hóa thạch 390 triệu năm

Nghiên cứu mới cho thấy những cây hóa thạch được phát hiện tình cờ ở phía tây nam nước Anh thuộc khu rừng được biết đến sớm nhất trên Trái đất. Hóa thạch 390 triệu năm tuổi đã soán ngôi khu rừng lâu đời nhất thế giới của khu rừng hóa thạch Gilboa ở bang New York, có niên đại 386 triệu năm.