Vì Tây Nguyên xanh và phát triển bền vững

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vừa đồng ý về nguyên tắc việc xây dựng chương trình Tây Nguyên III. Đây là chương trình “Nghiên cứu đánh giá tổng hợp tài nguyên- môi trường, kinh tế- xã hội và đề xuất luận cứ khoa học công nghệ phục vụ chiến lược phát triển bền vững Tây Nguyên giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030”. Sở dĩ thời điểm này chọn khu vực Tây Nguyên để nghiên cứu bởi tầm quan trọng của nó về mặt địa lý hành chính, địa lý tự nhiên, địa lý kinh tế đối với khu vực và trong cả nước.
Sau 35 năm kể từ ngày đất nước thống nhất và  25 năm đổi mới, đến nay diện mạo của Tây Nguyên đã thay đổi cơ bản và toàn diện, cả về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội. Bên cạnh những thay đổi tích cực, hàng loạt những tác động tiêu cực của quá trình phát triển cũng đang ngày càng lộ rõ.
Thu hoạch hồ tiêu. Ảnh: K.N.B
Thu hoạch hồ tiêu. Ảnh: K.N.B
Trong hơn 2 thập kỷ qua, Tây Nguyên là vùng có tốc độ phát triển dân số cơ học và tỷ lệ suy thoái rừng cao nhất nước. Nếu như năm 1989, Tây Nguyên chỉ mới chỉ có gần 2,5 triệu người bao gồm 12 dân tộc, chủ yếu là dân tộc thiểu số bản địa như: Jrai, Bahnar, Ê Đê, Mơ Nông… thì đến năm 2008 dân số Tây Nguyên đã lên đến hơn 5 triệu người, với thành phần dân tộc cũng đã được mở rộng, gồm 47 dân tộc. Sự gia tăng dân số đột biến, đặc biệt là tình trạng di cư tự do đã tạo ra nhiều hệ lụy, nhất là tài nguyên rừng bị khai thác ồ ạt; phân hóa xã hội ngày càng gia tăng.
Tây Nguyên cũng là vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi với hơn 2,9 triệu ha đất đỏ bazan và nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn, trong đó trữ lượng bauxite đạt gần 5,5 tỷ tấn… Mặc dù đầu tư của Nhà nước vào Tây Nguyên không ngừng gia tăng nhưng tăng trưởng kinh tế không bền vững, GDP đầu người thấp chỉ bằng 51% so với trung bình của cả nước, tỷ lệ nghèo đói cao (38%), chỉ sau vùng Tây Bắc (42%).
Chương trình Tây Nguyên III sẽ ưu tiên vấn đề nghiên cứu tình hình kinh tế- xã hội, đánh giá thực hiện chính sách; tập trung phục vụ trực tiếp một số hoạt động quản lý. Chương trình dự kiến thực hiện trong 5 năm (2011-2015) với tổng chi phí khoảng 350 tỷ đồng. Theo dự kiến, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam chủ trì chương trình với sự tham gia của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường…
Chương trình được xây dựng với 4 mục cơ bản. Trước hết là đánh giá thực trạng tài nguyên môi trường tự nhiên và kinh tế, văn hóa, xã hội của Tây Nguyên sau hơn 20 năm khai thác (kể từ sau chương trình Tây Nguyên II (năm 1988) nhằm đề xuất và xây dựng luận cứ khoa học công nghệ phát triển bền vững Tây Nguyên giai đoạn 2010-2020 và tầm nhìn 2030. Ngoài ra, chương trình còn cung cấp cơ sở dữ liệu phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội Tây Nguyên và các địa phương xây dựng kế hoạch 5 năm trước mắt và tiếp theo. Nghiên cứu đề xuất chuyển giao công nghệ tạo ra các sản phẩm hàng hóa và công nghệ xử lý môi trường nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển tiềm lực khoa học công nghệ Tây Nguyên. Mục tiêu cuối cùng là nghiên cứu cảnh báo thiên tai, đồng thời xây dựng các giải pháp phòng tránh giảm nhẹ thiên tai.
Thanh Chương

Chương trình Tây Nguyên I (1976-1980) với mục đích điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên và tài nguyên của Tây Nguyên nhằm xây dựng định hướng phát triển của vùng.

Chương trình Tây Nguyên II (1984-1988), với mục đích đánh giá toàn diện nhu cầu và điều kiện tự nhiên phục vụ phát triển kinh tế- xã hội của vùng.

Chương trình Tây Nguyên III (2011-2015) nghiên cứu đánh giá tổng hợp tài nguyên- môi trường, kinh tế- xã hội và đề xuất luận cứ khoa học công nghệ phục vụ chiến lược phát triển bền vững Tây Nguyên giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030.

Có thể bạn quan tâm

Khu triển lãm sản phẩm của các doanh nghiệp Gia Lai tại Hội chợ CAEXPO 2025 (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc).

CAEXPO 2025: Cơ hội để nông sản Gia Lai xuất ngoại

(GLO)- Từ ngày 17 đến 21-9, 8 doanh nghiệp của tỉnh Gia Lai sẽ tham gia Hội chợ Thương mại ASEAN-Trung Quốc lần thứ 22 (CAEXPO 2025). Đây là “cơ hội vàng” để nông sản Gia Lai vươn ra thị trường quốc tế thông qua việc quảng bá hàng hóa, tìm kiếm đối tác và mở rộng xuất khẩu.

Nông dân Lào trên đồng lúa thuần BĐR 57 ở giai đoạn chín sữa. Ảnh: T.N

Gia Lai hỗ trợ tỉnh Sekong triển khai mô hình thâm canh lúa cải tiến

(GLO)- Trong khuôn khổ chương trình hợp tác giữa tỉnh Bình Định cũ (nay là tỉnh Gia Lai) và 4 tỉnh Nam Lào, nhiều mô hình chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp được triển khai hiệu quả. Trong đó, mô hình thâm canh lúa cải tiến tại tỉnh Sekong đã góp phần nâng cao năng suất, phát triển nông nghiệp bền vững.

Tín chỉ carbon - “Đòn bẩy” phát triển kinh tế xanh

Tín chỉ carbon - “Đòn bẩy” phát triển kinh tế xanh

(GLO)- Trước đề xuất của Công ty Cổ phần Tập đoàn CT Group về việc thí điểm các dự án tín chỉ carbon tại tỉnh, phóng viên Báo và phát thanh, truyền hình Gia Lai đã phỏng vấn ông Nguyễn Văn Hoan-Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường về cơ hội và thách thức phát triển thị trường này.

Phát huy lợi thế vùng nguyên liệu, đưa ngành chế biến gỗ bứt phá

Phát huy lợi thế vùng nguyên liệu, đưa ngành chế biến gỗ bứt phá

(GLO)- Sau sáp nhập, tỉnh Gia Lai mới sở hữu lợi thế kép: vùng nguyên liệu rừng trồng rộng lớn ở phía Tây gắn kết với “thủ phủ chế biến gỗ” ở phía Đông. Đây là nền tảng để hình thành chuỗi giá trị lâm nghiệp khép kín, mở rộng thị trường xuất khẩu và tạo động lực mới cho ngành gỗ vươn xa.

Hội nghị tập huấn chuyên môn do Chi cục Trồng trọt-Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức vào ngày 12-9

Tập huấn cho hơn 50 học viên ở cơ sở về trồng trọt và bảo vệ thực vật

(GLO)- Hơn 50 học viên là lãnh đạo, viên chức đến từ 12 trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (TT-BVTT) trên địa bàn tỉnh đã tham dự hội nghị tập huấn chuyên môn do Chi cục Trồng trọt-Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức vào ngày 12-9, tại phường Quy Nhơn Bắc.

Xuất khẩu Gia Lai tăng tốc về đích

Gia Lai: Xuất khẩu 8 tháng 2025 vượt 2,18 tỷ USD, nhiều ngành hàng bứt phá

(GLO)- 8 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu của Gia Lai đã vượt 2,18 tỷ USD. Kết quả này cho thấy sự phục hồi rõ nét sau giai đoạn sụt giảm đơn hàng, vướng rào cản kỹ thuật, đồng thời phản ánh sức bật mới của nhiều ngành hàng chủ lực như cà phê, chanh dây, gỗ, dệt may, thủy sản…

null