Sau bão số 13, các nhà máy chế biến trong tỉnh cũng đẩy mạnh thu mua mì, góp phần giảm áp lực tiêu thụ cho người trồng.
Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp và Môi trường), năm nay, toàn tỉnh có hơn 85.000 ha đất trồng mì, trong đó khu vực phía Đông khoảng 9.000 ha. Mì thu hoạch từ tháng 11 năm nay kéo dài đến tháng 3 năm sau. Năng suất bình quân toàn tỉnh đạt 21,6 tấn/ha, chi phí đầu tư khoảng 25 triệu đồng/ha, lợi nhuận dao động 20-25 triệu đồng/ha/vụ.
Giá giảm, nông dân vẫn có lãi nhưng lo bấp bênh
Tại xã Vân Canh, ông Nguyễn Đức Thọ trồng 25 ha mì KM94, đã thu hoạch hơn 20 ha. Ông cho biết năm nay thời tiết thuận lợi, năng suất đạt khoảng 22 tấn/ha. Tuy nhiên, giá thu mua chỉ 2.000-2.100 đồng/kg (mì dưới 30 độ bột), thấp hơn nhiều so với mức 3.300 đồng/kg đầu vụ năm ngoái.
“Giá năm nay không quá thấp nhưng cũng chẳng cao. Bà con không lỗ nhưng lãi không đáng kể. Không được như năm 2023 khi mì lên gần 4.000 đồng/kg”, ông Thọ chia sẻ.
Chị Hà Thị Như Nguyệt, cùng xã, trồng 5 ha mì, năng suất hơn 20 tấn/ha. Chị bán được 2.300 đồng/kg (mì 30 độ bột), giảm 400 đồng/kg so với cùng thời điểm năm ngoái.
“Nông dân vẫn có lãi chút đỉnh nhưng nếu giá cứ rơi như hiện nay thì khó ổn định sản xuất”, chị Nguyệt có chút lo lắng.
Nhà máy tăng thu mua, hỗ trợ bà con vượt khó
Công ty TNHH một thành viên Nguyên Liêm (nhà máy đóng ở xã Vân Canh) đang thu mua mì với giá 2.300-2.500 đồng/kg cho mì đạt 30 độ bột. Mỗi ngày công ty nhập 400-500 tấn.
Ông Mai Đình Chương, Phó Giám đốc phụ trách vùng nguyên liệu, cho biết: “Giá trong bối cảnh thị trường tinh bột giảm mạnh như hiện nay là mức tương đối ổn định. Chúng tôi thu mua cao hơn các cơ sở khác 200-250 đồng/kg để hỗ trợ bà con”.
Tuy nhiên, ông Chương cũng thẳng thắn: Giá mì hiện thấp hơn cùng kỳ năm 2024 khoảng 500-700 đồng/kg do giá tinh bột xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ còn 8.500-8.700 đồng/kg, trong khi Lào bán mì tươi chỉ 1.500 đồng/kg. Với tỷ lệ chế biến 3 kg mì tươi/1 kg tinh bột, nhà máy trong nước gần như phải “gồng lỗ” để duy trì hoạt động.
Tại xã Vĩnh Quang, Công ty TNHH tinh bột sắn Nhiệt Đồng Tâm Vĩnh Thạnh đang thu mua giá 2.000-2.200 đồng/kg mì đạt 30 độ bột, đồng thời hỗ trợ cước vận chuyển tối đa 120 đồng/kg cho vùng xa.
Ông Trần Minh Thường, Phó Giám đốc Công ty, cho hay: “Thị trường xuất khẩu khó khăn, phụ thuộc lớn vào Trung Quốc. Sản lượng nội địa không nhiều, trong khi riêng Gia Lai đã có 9 nhà máy chế biến. Cạnh tranh rất khốc liệt”.
Hướng đến phát triển vùng nguyên liệu mì bền vững
Năm 2024, cả nước có 517.700 ha mì, riêng Gia Lai chiếm gần 17% sản lượng cả nước với 86.621 ha, đạt 1,82 triệu tấn. Năm 2025, diện tích giảm nhẹ còn 85.420 ha do chuyển đổi cơ cấu. Hiện, toàn tỉnh có 9 nhà máy tinh bột mì, công suất 1.800 tấn thành phẩm/ngày, góp phần tạo việc làm và thúc đẩy giảm nghèo tại 113 xã, phường có vùng nguyên liệu. Tuy nhiên, ngành mì vẫn đối mặt nhiều thách thức: sản xuất manh mún, áp dụng khoa học kỹ thuật hạn chế, thiếu giống năng suất cao và đặc biệt là bệnh khảm lá virus lây lan mạnh từ năm 2018, chưa có thuốc đặc trị.
Ngành mì Gia Lai đang bước vào giai đoạn cần tái cấu trúc mạnh mẽ để phát triển ổn định và dài hạn. Phó Chủ tịch UBND tỉnh Dương Mah Tiệp nhấn mạnh, tỉnh khuyến khích phát triển cây mì tập trung ở những vùng, những nơi đảm bảo yêu cầu áp dụng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơ giới hóa trong sản xuất, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng mì. Đồng thời, chỉ trồng mì ở những vùng, những nơi có điều kiện thâm canh; chuyển toàn bộ diện tích mì ở độ dốc cao trên đất lâm nghiệp (rừng bị phá) sang trồng rừng, trồng cây trồng khác thích hợp hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Tỉnh cũng sẽ tập trung xây dựng vùng nguyên liệu mì bền vững, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị hoàn chỉnh. Trong giai đoạn đến năm 2030, Gia Lai đặt mục tiêu duy trì và phát triển ổn định vùng nguyên liệu khoảng 80.000 ha mì, sản lượng đạt hơn 2 triệu tấn củ tươi, hướng tới nâng cao chất lượng và đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu.
Theo ông Tiệp, tỉnh tiếp tục khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp nhà máy chế biến các sản phẩm từ mì (tinh bột, etanol, mỳ chính,...). Đồng thời, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp chế biến bánh kẹo, nha đường glucose, mỳ ăn liền, thức ăn chăn nuôi,... sử dụng mì và tinh bột mì làm nguyên liệu, nhằm đa dạng hóa đầu ra, gia tăng giá trị chuỗi sản phẩm. Ưu tiên sử dụng công nghệ mới, công nghệ tiên tiến trong chế biến sắn để nâng cao chất lượng, sử dụng tối đa sản phẩm phụ, bảo vệ môi trường.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng là xây dựng hệ thống liên kết sản xuất chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nông dân, đặc biệt trong khâu nhân giống sạch bệnh, giống kháng bệnh khảm lá và hình thành các vùng sản xuất giống quy mô tại từng địa bàn.
Ông Tiệp cũng yêu cầu cần tăng cường cơ giới hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trồng, thu hoạch và chế biến để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, thu nhập cho người dân. Cùng với đó là định hướng xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm mì của tỉnh, đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, mẫu mã và quy cách theo thị trường trong nước và quốc tế. Những giải pháp này, sẽ tạo nền tảng để ngành mì ở địa phương phát triển hiện đại, bền vững, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa nông dân, doanh nghiệp và địa phương.