10 năm, công nhận 180 giống lúa, chỉ có 16 giống hoa, 6 giống rau

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Trong 10 năm thực hiện đề án Phát triển sản xuất giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản đến năm 2020, đã có hàng trăm giống lúa được công nhận, nhưng chỉ có 16 giống hoa được công nhận mới. Một con số mất cân đối nghiêm trọng.
Theo báo cáo của Bộ NNPTNT, từ năm 2010 đến nay, ngành chức năng đã công nhận được 685 giống cây trồng (248 giống được công nhận chính thức, 437 giống sản xuất thử).
Trong đó, chỉ tính riêng giống lúa đã công nhận chính thức 180 giống, trong đó có 57 giống lúa lai và 123 giống lúa thuần. Một số giống được sử dụng rộng rãi trong thực tiễn sản xuất. Giống ngô công nhận chính thức 40 giống ngô lai và 56 giống sản xuất thử. Hiện nay, các giống ngô do Việt Nam lai tạo chiếm khoảng 40% thị phần ngô giống trong cả nước.
Trong khi có nhiều giống lúa, ngô được công nhận thì lại có rất ít giống rau, hoa mới ra đời. Theo đó, giống rau, trong 10 năm, mới công nhận chính thức 6 giống cà chua (HT42, HT144, HT160…); 05 giống dưa chuột (CV29, PC4…), 02 giống bí xanh (số 1, Thiên Thanh 5) và một số giống nấm (nấm Rơm V115, nấm Mộc nhĩ chủng Au1, nấm Chân dài CL1, nấm Trân châu chủng Ag1...)
Giống hoa, công nhận chính thức và sản xuất thử 16 giống hoa, gồm các chủng loại: cẩm chướng, hoa cúc, hoa hồng, hoa lily, hoa lay ơn, hoa lan Hồ điệp, hồng môn... Trong khi đó, giống cây ăn quả cũng mới công nhận 30 giống cây ăn quả chính thức.
Ông Phan Trọng Hổ - Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Bình Định cũng thừa nhận, các giống rau đang thiếu một cách trầm trọng.
 
10 năm, cả nước chỉ công nhận được 16 giống hoa mới. Ảnh: I.T
Đối với giống lâm nghiệp, trong giai đoạn 2010 đến nay, đã công nhận chính thức 252 giống lâm nghiệp mới. Các giống cây lâm nghiệp mới được đưa vào sản xuất đã góp phần tăng năng suất rừng trồng cả nước đạt bình quân khoảng 15 m3/ha/năm, tăng 50% so với năm 2010 (khoảng 10m3/ha/năm).
Trong lĩnh vực chăn nuôi, từ năm 2010 đến nay, đã công nhận được 26 dòng/tổ hợp lai vật nuôi mới (vịt PT- Đại Xuyên, gà Ri vàng rơm-VCN/VP, gà lai hướng trứng HA, tằm sắn TS1-T, tằm sắn TS1-H, Dòng vịt lai thương phẩm VSM6…). Đã làm chủ công nghệ chọn tạo giống lợn, nhờ vậy, trọng lượng xuất chuồng tăng từ 68-72 kg lên 90-100 kg/6 tháng tuổi; tỷ lệ nạc tăng từ 35-38% đối với lợn lai F1 lên 40-42%.
Về giống thuỷ sản, đã công nhận 13 giống thủy sản mới, chương trình chọn giống tôm thẻ chân trắng bố mẹ đã góp phần đáp ứng 25% thị phần con giống chất lượng cho các vùng nuôi tôm. Giống cá tra bố mẹ chất lượng đã được đưa vào sản xuất, nâng cao tăng trưởng trên 20%...
Theo ông Nguyễn Văn Việt, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NNPTNT), công tác nghiên cứu, chọn tạo giống chủ yếu tập trung vào những cây trồng, vật nuôi ngắn ngày, sinh trưởng nhanh; một số giống mới được công nhận nhưng chưa được sử dụng rộng trong sản xuất. Trong trồng trọt chủ yếu tập trung chọn tạo giống lúa, ngô...; các loại giống rau ăn lá, điều, một số loại cây ăn quả... chưa được quan tâm đúng mức.
Phát biểu tại Hội nghị tổng kết Đề án phát triển sản xuất giống cây nông, lâm nghiệp, giống vật nuôi và giống thủy sản đến năm 2020 ngày 24/6, theo Bộ trưởng Bộ NNPTNT Nguyễn Xuân Cường, ngành sản xuất giống đã góp phần quan trọng tạo động lực cho ngành nông nghiệp duy trì đà tăng trưởng, thúc đẩy xuất khẩu đồng thời hình thành hệ sinh thái canh tác hiện đại. “Tuy nhiên, đang có sự mất cân đối khá lớn giữa khu vực các viện, trường và tư nhân trong chọn tạo giống. Trong khi các viện trường được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, nguồn nhân lực lớn thì các cơ sở tư nhân đang khát khao có những điều kiện đó để tạo ra nhiều giống hơn” – ông Cường nêu một thực tế.
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, cơ cấu giống nghiên cứu dường như không có nhiều thay đổi sau 10 năm, các đơn vị vẫn chủ yếu nghiên cứu các giống ngô, lúa, con nuôi chủ lực như lợn mà chưa có sự chuyển biến theo nhu cầu thị trường.
“Mỗi năm cho ra đời mấy trăm loại giống nhưng 80% giống rau vẫn nhập nội, giống khoai tây, giống hoa vẫn phải nhập cho thấy các đơn vị chưa nhạy bén, chưa đánh giá được phạm vi rất rộng của thị trường” – ông Cường nói.
Từ thực tế đó, Bộ trưởng Cường yêu cầu các tổ chức, cá nhân phải sản xuất giống theo mệnh lệnh thị trường, không thể khư khư ôm mãi cơ cấu cũ, cần nghiên cứu, chọn tạo giống thích ứng với biến đổi khí hậu, biến nguy cơ thành thời cơ.
Anh Thơ (Dân Việt)

Có thể bạn quan tâm

Đổi đời trên quê mới

Đổi đời trên quê mới

(GLO)- Rời quê hương Thái Bình, Cao Bằng để đến với mảnh đất Ia Hla (huyện Chư Pưh), nhiều người mang theo ước mơ đổi đời. Qua bao thăng trầm, họ đã trở thành những điển hình sản xuất giỏi ở địa phương.

Anh Thuế bên vườn cà phê tái canh của gia đình

Kiểm soát vật tư đầu vào phục vụ tái canh cà phê

(GLO)- Gia Lai hiện có hơn 106 ngàn ha cà phê. Theo kế hoạch, năm 2025, toàn tỉnh tái canh 2.370 ha và ghép cải tạo 30 ha cà phê. Hiện ngành nông nghiệp và các địa phương trong tỉnh đang tăng cường kiểm soát chất lượng các vật tư đầu vào nhằm giúp nông dân thực hiện chương trình tái canh hiệu quả.

Xuất khẩu nông sản: Từ lợi thế địa phương đến sân chơi toàn cầu

Xuất khẩu nông sản: Từ lợi thế địa phương đến sân chơi toàn cầu

(GLO)- Đẩy mạnh xuất khẩu nông sản là hướng đi chiến lược để nâng cao giá trị, mở rộng thị trường và thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững. Vì vậy, cần chuyển hóa lợi thế nông sản địa phương thành năng lực cạnh tranh thực thụ để đủ sức vươn xa trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Chư Păh đầu tư xây dựng nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Chư Păh đầu tư xây dựng nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

(GLO)- Sau 5 năm triển khai Đề án số 02-ĐA/HU của Huyện ủy về phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2021-2025, huyện Chư Păh (tỉnh Gia Lai) đã từng bước hình thành vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao hiệu quả kinh tế, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Cây dâu tằm “bén đất” Ia Pa

Cây dâu tằm “bén đất” Ia Pa

(GLO)- Mặc dù mới “bén đất” Ia Pa (tỉnh Gia Lai) hơn 1 năm nay, song mô hình trồng dâu nuôi tằm đã mang lại hiệu quả cao, mở ra cơ hội chuyển đổi cơ cấu cây trồng tại địa phương.