Thời hạn vay vốn ưu đãi mua nhà ở xã hội tối đa 25 năm

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Nghị định số 49/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định về mức vốn, lãi suất, thời hạn vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở.
 
Toàn cảnh dự án Nhà ở xã hội Hoa Sơn, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Thái Hùng/TTXVN
Toàn cảnh dự án Nhà ở xã hội Hoa Sơn, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Ảnh: Thái Hùng/TTXVN
Chính phủ ban hành Nghị định số 49/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 100/2015/NĐ-CP về phát triển và quản lý nhà ở xã hội.
Cụ thể, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung quy định về mức vốn, lãi suất, thời hạn vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội; xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà để ở.
Về mức vốn vay, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP quy định trường hợp mua, thuê mua nhà ở xã hội, mức vốn cho vay tối đa bằng 80% giá trị hợp đồng mua, thuê mua nhà.
Trường hợp xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở thì mức vốn cho vay tối đa bằng 70% giá trị dự toán hoặc phương án vay, tối đa không quá 500 triệu đồng và không vượt quá 70% giá trị tài sản bảo đảm tiền vay. Lãi suất cho vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội cho từng thời kỳ.
Lãi suất cho vay tại các tổ chức tín dụng được chỉ định do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định và công bố trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc không vượt quá 50% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại trong cùng thời kỳ.
Thời hạn vay để mua, thuê mua nhà ở xã hội do ngân hàng và khách hàng thỏa thuận phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng và tối đa không quá 25 năm kể từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên so với tối thiểu 15 năm kể từ ngày giải ngân khoản vay đầu tiên theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP.
Về nguyên tắc xác định quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP quy định tại các đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III, trong quá trình lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng nông thôn, quy hoạch phát triển khu công nghiệp, quy hoạch xây dựng các cơ sở giáo dục…, Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm căn cứ vào nhu cầu nhà ở xã hội trên địa bàn và chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở đã được phê duyệt để bố trí đủ quỹ đất dành cho phát triển nhà ở xã hội; chỉ đạo cơ quan chức năng xác định cụ thể vị trí, địa điểm, quy mô diện tích đất của từng dự án xây dựng nhà ở xã hội đồng bộ về hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để phát triển nhà ở xã hội.
Tại các đô thị loại IV và loại V, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương về nhu cầu nhà ở xã hội trên địa bàn nơi có dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị được phê duyệt hoặc chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở để yêu cầu chủ đầu tư dành một phần diện tích đất ở trong dự án đã đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật để xây dựng nhà ở xã hội.
Việc sử dụng đất để phát triển nhà ở xã hội phải bảo đảm phù hợp với quy hoạch đô thị, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng nông thôn đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và tuân thủ theo đúng Giấy phép xây dựng trong trường hợp phải có giấy phép do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Khu đô thị từ 2ha phải dành 20% diện tích đất để xây dựng nhà ở xã hội
Bên cạnh đó, Nghị định số 49/2021/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung quy định về quỹ đất để phát triển nhà ở xã hội với các dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị.
Theo đó, trường hợp dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị có quy mô sử dụng đất từ 2ha trở lên tại các đô thị loại đặc biệt và loại I hoặc từ 5ha trở lên tại các đô thị loại II và loại III phải dành 20% tổng diện tích đất ở trong các đồ án quy hoạch chi tiết được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, đã đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật dành để xây dựng nhà xã hội.
Trường hợp dự án đầu tư xây dựng nhà ở thương mại, khu đô thị có quy mô sử dụng đất nhỏ hơn 2ha tại các đô thị loại đặc biệt và loại I hoặc nhỏ hơn 5ha tại các đô thị loại II và loại III, chủ đầu tư không phải dành quỹ đất 20% và có nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất cho toàn bộ diện tích đất của dự án theo quy định của pháp luật về đất đai.
(TTXVN/Vietnam+)

Có thể bạn quan tâm

Chung sức làm đường, đổi thay vùng quê

Chung sức làm đường, đổi thay vùng quê

(GLO)- Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhiều tuyến đường bê tông đã được xây dựng ở những vùng quê khó khăn. Hạ tầng giao thông hoàn thiện không chỉ giúp người dân đi lại, sản xuất thuận lợi hơn mà còn làm đổi thay diện mạo nông thôn, khơi dậy tinh thần đoàn kết trong cộng đồng.

Thị trường bất động sản dễ hình thành bong bóng

Thị trường bất động sản dễ hình thành bong bóng

Với mặt bằng giá hiện nay, người mua ở thực gần như không còn cơ hội tiếp cận thị trường. Thay vào đó, phần lớn giao dịch đến từ nhóm nhà đầu tư, đầu cơ. Khi người mua ở thực không thể tham gia, dòng tiền chỉ quay vòng giữa các nhà đầu tư với nhau, dễ hình thành bong bóng bất động sản.

Sự nhất quán của chính sách

Sự nhất quán của chính sách

Trong bức tranh phục hồi kinh tế hiện nay, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp không chỉ là một chính sách hỗ trợ đơn lẻ, mà là nhiệm vụ mang tính sống còn để khơi thông nguồn lực xã hội, kích hoạt tăng trưởng và củng cố niềm tin của nhà đầu tư.

Ngẫm chuyện ngập

Ngẫm chuyện ngập

Người Thủ đô không chỉ yêu giai điệu và ca từ của ca khúc “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”, mà hiện tại, có lẽ họ đều mong đến thời điểm tên bài hát thành hiện thực.

Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho vùng khó khăn

Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho vùng khó khăn

(GLO)- Từ nguồn vốn Dự án 4 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025, nhiều địa phương tập trung đầu tư công trình hạ tầng thiết yếu, góp phần nâng cao đời sống người dân, thay đổi diện mạo nông thôn, miền núi.

null