Ngơ ngác heo may

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

"Mẩy, sang đây với bà!" - đứng bên hàng giậu, bà tôi gọi với sang. Bên kia, chị Mẩy đứng lắc lư, hai bàn tay ấp gương mặt to bè làm điệu bộ chỉ tôi mới hiểu, chị bắt chước chị Lam trong làng hôm nọ làm cô dâu.

Trên cái đầu rối bù như tổ quạ, một mớ hoa sặc sỡ cài lên, nào dâm bụt, ngũ sắc, đậu biếc… "Nhanh sang bà cho cái này!" - bà tôi lại gọi, tay vén hàng rào. Chị Mẩy lặc lè chui qua rồi ôm chầm lấy bà ngoạc miệng cười, cái cằm bạnh ra dưới cái miệng tèm lem nhọ nồi. "Ngồi đây nào!" - bà dúi vào tay chị nắm xôi khúc, dỗ dành. Chị Mẩy khịt mũi cầm nắm xôi ngồi bệt xuống bậc thềm ăn ngon lành. Bà tôi lúc này mới lấy từ trong túi áo ra chiếc lược, tỉ mẩn gỡ từng bông cỏ may dính trên đầu tóc rối bù của chị.

"Ứ ừ, sao bà lại gỡ hoa của cô dâu! Bắt đền bà đấy!" - chị Mẩy vùng vằng đứng lên giẫm bành bạch xuống sân khóc tu tu. "Thôi nào! Bà đâu có gỡ, bà chải tóc Mẩy cho mượt để lát gội bồ kết rồi bà lại cài hoa cho". Chị Mẩy nghe ra, lát sau ngoan ngoãn theo bà ra giếng gội đầu. Mùi bồ kết nồng nồng theo gió thoảng từ giếng vào đến hiên. Tôi đứng trong bếp nhịn cười nhìn chị Mẩy lắc lư thân hình mập mạp, còn bà vừa gội vừa thủ thỉ dỗ dành.

Chị Mẩy là con ông Hương Thưởng giàu có nhất làng tôi ngày trước. Vợ ông sinh một đàn con, tưởng thôi, ai đời ngoài bảy mươi ông tằng tịu với bà Hớn làng bên, sinh ra chị Mẩy. Chị Mẩy được ba tháng tuổi, bà Hớn nhận ra chị không bình thường như con người ta. Đêm đó, bà lặng lẽ bế chị Mẩy đặt trước nhà ông Thưởng rồi đi biền biệt. Ông Thưởng nhận chị nhưng vợ con ông ghét bỏ, hắt hủi vì chị là giọt máu rơi, lại tật nguyền. Già rồi, lại chứng kiến cảnh đó nên ông Thưởng đau lòng, đổ bệnh mà chết. Người làng bảo chị Mẩy như tội nợ của ông Thưởng, vì ngày còn trẻ, ông trót ăn ở ác với người làng tôi.

Chị Mẩy dở người, gương mặt lại dị dạng. Mùa nắng cũng như mưa, chị chạy rông khắp làng trên xóm dưới, múa may, hát hò; gặp ai chị cũng ngoạc miệng ra cười, rủ làm cô dâu. Cả làng chẳng mấy ai thương chị, riêng chỉ có bà tôi là thương chị đến lạ lùng. Mỗi khi về quê, tôi luôn nghe cô chú tôi càu nhàu việc bà cứ gọi chị Mẩy sang tắm táp, gội đầu. Hôm nào gặp bữa "ăn tươi", bà lại dấm dúi san thức ăn ra cái bát cất đi, đợi mọi người đi khỏi là vẫy chị Mẩy sang. Trong khi chị ăn, bà phe phẩy cái quạt nan, âu yếm nhìn chị, chốc chốc mắng yêu: "Cha bố nhà chị, phải ở thành phố, người ta cho ngay vào nhà thương điên con ạ! May mà ở quê, lại có bà". Vừa nói bà vừa xoa ve cái lưng to bè như tấm phản của chị.

Mãi sau này tôi mới hiểu vì sao chị Mẩy hiền lành mà cô chú tôi lại khó chịu với chị đến thế. Số là ngày trước, lúc túng bấn, ông bà tôi thường sang vay thóc, vay tiền ông Hương Thưởng. Không riêng gì ông bà tôi, cả làng cần gì đều vay của ông ấy. Ông Thưởng cho vay nặng lãi nhưng vì ngặt nên ai cũng đành chịu. Đến kỳ hạn đòi nợ, ai không trả nổi là ông cho người đến cắt đất vườn hoặc lấy đi những gì quý giá nhất trong nhà người ta.

Năm đó, ông tôi đến kỳ hạn trả nợ nhưng chưa có tiền, ông Thưởng cho người sang nhà khiêng bộ lư đồng về. Nhà ông tôi bấy giờ có mỗi bộ lư đồng là tài sản quý giá. Trừ nợ vẫn chưa đủ, Hương Thưởng còn cho người cắm lại hàng rào. Vườn ông bà tôi sát vườn nhà Hương Thưởng; mảnh vườn rộng thênh, qua hôm sau, chỉ còn lại một nửa. Hương Thưởng lấy phần đất có cả cây ăn trái lâu năm. Van xin khất nợ cách gì cũng không xong, ông tôi uất quá lăn ra ốm, hai tháng sau thì qua đời.

Cái chết của ông tôi khiến bà con trong làng càng thêm căm ghét Hương Thưởng; cô chú tôi lòng lúc nào cũng âm ỉ căm phẫn. Việc chị Mẩy xuất hiện trong nhà Hương Thưởng như từ trên trời rơi xuống khiến cho bà con trong làng hả hê, nhiều người ác miệng nói bóng gió: "Quả báo; đời cha ăn mặn…". Duy chỉ có bà tôi là yên lặng. Ngày ngày làm cỏ vườn nhà, bà nhìn sang bên kia rào giậu thấy chị Mẩy lê la chẳng ai bồng bế. Chị Mẩy lên năm tuổi, ông Thưởng qua đời; đàn con ông cũng bỏ xứ đi xa, chỉ còn lại vợ chồng người con út với nhà cửa ruộng vườn cha để lại. Chị Mẩy dở người lại chẳng được tích sự gì nên chị dâu hắt hủi, anh trai cũng chẳng thương gì đứa em lạc loài. Đến bữa ăn, chẳng mấy khi chị Mẩy được ngồi chung; cuối bữa, còn chút cơm thừa canh cặn chị mới được ăn. Bên này rào giậu nhìn sang, bà tôi thấy hết; đợi mọi người đi khỏi, bà lại vẫy chị Mẩy sang bên này để bà tắm táp, cho ăn.

"Mẹ già rồi còn đi lo cho cái đứa con nhà ác độc!" - cô tôi lầm bầm. Chú tôi đi xa về nghe kể cũng kéo bà vào nhà nhỏ to: "Bố chúng con mất cũng vì lão Thưởng, đến giờ chúng con vẫn chưa quên". Cô tôi đứng bên đế thêm vào: "Đã vậy mẹ suốt ngày chăm nó còn hơn con cháu trong nhà!". Lần nào nghe xong, bà tôi cũng lẳng lặng ra sau hè ngồi nhìn mông lung ra cánh đồng. Có lần, tôi thấy bà kéo vạt áo chặm vào mắt nghẹn ngào: "Chuyện ngày xưa, quên đi các con ạ! Lão Thưởng ác nhưng con Mẩy tội tình gì, lại tật nguyền, chừng đó chưa đủ trả nợ với cuộc đời sao?!". Cô chú tôi nghe vậy thì yên lặng.

Có vẻ như chị Mẩy ý thức trên đời chỉ còn duy nhất bà tôi yêu thương, che chở chị. Mỗi lần bên bà, chị lại nũng nịu nhưng bà bảo gì cũng ngoan ngoãn vâng lời. Lần nào ăn dở nắm xôi, củ khoai hay cái bắp ngô mà nghe đầu ngõ tiếng cô chú tôi về, lập tức chị Mẩy lao ra vườn chui tọt qua hàng rào về bên hiên ngồi im thin thít. Mỗi lần chứng kiến cảnh đó, bà tôi lại càng thương…

Một lần chị Mẩy qua tìm bà, gặp lúc bà ra chợ chỉ còn tôi ở nhà. Thấy tôi, chị đi giật lùi ra cửa, miệng lắp bắp những câu không rõ nghĩa. Thấy tội nghiệp, tôi vẫy chị: "Lại đây em tết tóc cho!". Nghe tết tóc, chị chạy lại ngay. Tôi ra vườn ngắt vài nhành hoa cải, tết tóc xong, tôi cài hoa lên rồi dắt chị vào soi chiếc gương bà giắt ở cửa buồng. Chị Mẩy nghiêng đầu ngắm nghía những bông vàng rực trên đầu, miệng ngoạc ra cười nhìn tôi vẻ xúc động, hóa ra ngoài bà còn có người cũng thương chị. Chị nắm tay tôi chạy long nhong khắp vườn, vừa chạy vừa hò hét: "Đẹp hông, đẹp hông? Mai mốt Mẩy làm cô dâu!". Tôi yên lặng ngắm nỗi vui trong mắt một người điên, nó ánh lên vẻ trẻ thơ trong ngần. Có chút gì ấm áp len lỏi vào lòng, tôi thầm thì: "Mùa hè, em về thăm bà, chị cứ sang đây em tết tóc cho!". Chị Mẩy gật đầu lia lịa rồi lại chạy long nhong quanh vạt cải cho đến khi bà tôi về. Chị lao ra khoe với bà chuyện tôi tết tóc. Bà nhìn tôi rưng rưng như thể tôi đã mang đến cho bà nỗi vui.

 

 Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG

*

*     *


Tôi đi học xa, ở nhà bà đột ngột qua đời. Xem những tấm ảnh trong đám tang bà do bố tôi chụp gửi sang, tấm hình nào tôi cũng thấy chị Mẩy gục đầu bên quan tài bà.

Nghỉ hè trở về quê, tôi ra đồng thăm mộ bà; sau hơn một năm, ngôi mộ đã xanh cỏ. Tôi ngồi thụp xuống khẽ chạm vào gương mặt bà khắc trên tấm bia mờ ảo qua lớp khói hương. Có bóng người ngồi tựa vào tảng đá dưới chân mộ, tôi lại gần kêu lên: "Chị Mẩy!". Chị Mẩy giật mình quay lại nhìn tôi, gương mặt trong gió heo may ngơ ngác, câm lặng. Mái tóc rối bù ngày nào giờ được chải gọn gàng nhưng tuyệt nhiên không cài một bông hoa nào. Trong bộ đồ nâu vải thô nhăn nhúm, trông chị gầy đi. Tôi lại gần nắm bàn tay chị: "Chị Mẩy nhớ em không?". "Có chứ sao không" - chị gật đầu. "Cái Xuyến cháu bà đây thôi!" - giọng chị trong trẻo như một người bình thường, thần thái cũng không còn vương chút gì của người điên.

Tôi về nghe cô chú kể, từ dạo bà mất, ngày nào chị Mẩy cũng ra mộ hương khói rồi ở đó đến đêm. Chị không còn chạy long nhong khắp làng, không đòi làm cô dâu. Chị đã biết việc nhà cửa, ruộng vườn. Bà con trong làng ai cũng kinh ngạc, có người rỉ tai nhau bảo bà tôi thương nên phù hộ cho chị.

Ba năm sau, tôi mới có dịp về lại quê, một mình ra đồng thăm mộ ông bà. Ông bà tôi đã về nằm cạnh nhau trên đồi cao, nhìn xuống cánh đồng bạt ngàn nắng gió. Nơi này, chiều chiều đàn sáo lại kéo về ríu rít trên ngọn cây cao. Cách mộ bà không xa, tôi nhìn thấy một nấm mộ có lẽ vừa được xây cất, chân hương còn mới. Tôi lại gần nhìn vào tấm bia, bàng hoàng. "Chị Mẩy ơi!" - tôi thầm thì gọi. Có tiếng chân người đến gần, tôi giật mình quay lại; là chú tôi. Chú kể hai ngày liền không thấy chị Mẩy đâu, người nhà chạy đi tìm, họ nhìn thấy chị nằm bên mộ bà tôi, gương mặt bình thản như say ngủ. Chị đi từ bao giờ chẳng ai hay. Cô chú tôi thương, xin gia đình chị Mẩy cho chị được về gần bà, trong nghĩa trang gia tộc…

Chiều xuống, quê tôi đẹp mơ màng, nếp nhà nào cũng có khói lên nghi ngút. Tôi bỗng nhớ bà, nhớ nồi nước bồ kết gội đầu, nhớ chị Mẩy với hai bím tóc rối bù lúc lắc trên vai. Chạng vạng, tôi chạy như bay trên cánh đồng, gió thổi ù ù bên tai, tôi như nghe có cả tiếng bà âu yếm mắng chị Mẩy: "Cha bố nhà chị, lại đây bà gội đầu cho"...

Truyện ngắn của VŨ NGỌC GIAO
(Dẫn nguồn NLĐO)

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.