Hai dân tộc-Một hồn chiêng
Nghệ nhân Ksor Mang (40 tuổi, người Jrai, buôn Phu Ama Nher, xã Ia Sao) có nhiều tâm huyết tìm hiểu, truyền dạy cồng chiêng cho thế hệ trẻ trong làng.

Theo anh, người Jrai sở hữu nhiều bộ cồng chiêng với tên gọi, số lượng và công năng riêng, gắn liền với những sinh hoạt văn hóa tinh thần như: Bộ chiêng Arap thường sử dụng khi đưa tiễn người chết; bộ chiêng M’nhum sử dụng cho những lễ hội vui tươi; bộ chiêng T’rum dùng trong ngày hội gia đình và cộng đồng; bộ chiêng Vang được đánh trong lễ cầu mưa, cầu sức khỏe...
Đặc biệt, bộ chiêng M’lem, còn gọi là chiêng Ơi Yăh (chiêng ông bà), có kích thước nhỏ, là báu vật của dòng họ Rơmah. Bộ chiêng này chỉ sử dụng trong phạm vi gia đình, dòng tộc ở những dịp trọng đại như mừng thọ, cưới hỏi, mừng nhà mới.
“Âm thanh của chiêng phong phú không chỉ bởi số lượng và cấu trúc bộ chiêng, mà còn bởi kỹ thuật diễn tấu. Người Jrai thường sử dụng nhiều loại dùi khác nhau bằng gỗ cứng, gỗ mềm hay gỗ bọc da, từ đó tạo ra thanh âm khác biệt, tùy vị trí gõ. Tay trái cũng có thể tham gia bằng cách bóp vành chiêng để làm biến đổi âm sắc, khiến tiếng chiêng vừa ngân vang, vừa đa thanh, vừa giàu biểu cảm”-nghệ nhân Ksor Mang chia sẻ.
Nghệ nhân Ayó (65 tuổi, người Bahnar, làng Piơm, xã Đak Đoa) đã hơn 50 năm gắn bó với việc biểu diễn và truyền dạy cồng chiêng ở làng. Hiện làng Piơm có một đội cồng chiêng gồm 40 thành viên (trong đó có 13 người là con, cháu), thường xuyên tham gia biểu diễn tại các sự kiện văn hóa của địa phương.

cồng chiêng. Ảnh: R.H
Theo ông Ayó, một bộ cồng chiêng truyền thống của người Bahnar thường có từ 18-20 chiếc. Tùy vào việc sử dụng trong lễ hội hay đời thường mà cồng chiêng có giai điệu khác nhau: Lễ bỏ mả có giai điệu nhẹ nhàng, trong khi lễ đâm trâu hay mừng lúa mới lại sôi động.
Nghệ nhân Ayó cho biết: “Cồng chiêng của người Bahnar có nhiều nét tương đồng với cồng chiêng của người Jrai. Cả hai đều có số lượng cồng chiêng nhiều, tiết tấu phong phú và được dùng trong các nghi lễ truyền thống tương tự nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt cũng rất rõ: Người Jrai thường có phong cách diễn tấu mạnh mẽ, dứt khoát hơn, trong khi người Bahnar nhẹ nhàng và sâu lắng hơn”.
Nghệ nhân Ưu tú Rơ Châm Tih (52 tuổi, người Jrai, làng Jút 1, xã Hrung) cũng đồng tình với nhận định của nghệ nhân Ayó. Ông cho biết thêm: Cồng chiêng giữa 2 dân tộc vẫn có nhiều điểm tương đồng, chỉ khác biệt về cách thể hiện nghi thức và phong cách âm nhạc.
Ví dụ như bài lễ đâm trâu, người Bana diễn tấu cồng chiêng nhẹ nhàng, trong khi người Jrai thì sôi nổi, khí thế hơn, phản ánh rõ qua tiết tấu chiêng và người thực hiện đâm trâu. Nhưng cả hai dân tộc đều dùng loại chiêng truyền thống Arap để diễn tấu.
Theo nghệ nhân Rơ Châm Tih, trước đây, một đội cồng chiêng Jrai chỉ có tối đa 13 người tham gia diễn tấu. Ngày nay, với cải tiến trong cách chơi, một dàn chiêng có thể lên đến 20 người nhằm tạo nên các lớp âm thanh phong phú, đa sắc.
“Tại các địa bàn như Đak Đoa và Pleiku-nơi cộng đồng người Jrai và Bana sinh sống xen kẽ, sự giao thoa văn hóa diễn ra tự nhiên. Chính vì vậy, các bài chiêng trong lễ hội của hai dân tộc cũng có nét tương đồng, nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng của từng dân tộc”-nghệ nhân Rơ Châm Tih cho biết.
Nối liền núi rừng, mở rộng gắn kết
Theo Nghệ nhân Ưu tú, nhà nghiên cứu Yang Danh (79 tuổi, người Bahnar, xã Vĩnh Thạnh), thời thuộc Pháp, người Bahnar ở các huyện Vân Canh, Vĩnh Thạnh (tỉnh Bình Định), người Bahnar ở các xã phía Nam huyện An Khê và các huyện Kông Chro, Kbang (tỉnh Gia Lai) thuộc nhóm người Bahnar ở vùng A La Kông (vùng dưới đèo Mang Yang).
Đây cũng là một bộ phận khăng khít của cộng đồng dân tộc Bahnar nói chung. Người Bahnar ở vùng này cơ bản giống nhau về văn hóa truyền thống, trong đó có diễn tấu cồng chiêng.
Ông Yang Danh cho biết: Bộ cồng chiêng cũng có điểm khác như người Bahnar ở Vĩnh Thạnh thường đánh bộ cồng có từ 3-5 cái, còn người Bahnar ở An Khê đánh bộ cồng có từ 5-7 cái.
Dù vậy, cồng đều được cấu tạo và phân chia theo các loại: cồng cái (cồng mẹ, âm thanh trầm), cồng nhỡ (cồng giữa, nhỏ hơn so với cồng mẹ, âm thanh vang xa), cồng con (nhỏ hơn nhiều so với cồng mẹ, cồng giữa, âm thanh cũng vang xa nhưng khác với cồng giữa).
Bộ chiêng của người Bahnar ở Vĩnh Thạnh thường có 5-7 cái kích thước nhỏ và âm thanh, độ vang khác nhau; còn cồng chiêng của người Bahnar ở An Khê có số lượng nhiều hơn.
Người Jrai và người Bahnar là 2 dân tộc bản địa lâu đời và cũng đông nhất trong cộng đồng các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai (cũ). Cách đây 20 năm, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO ghi danh di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nghệ nhân Nhân dân Đinh Chương (86 tuổi, người Bahnar, làng K8, xã Vĩnh Sơn) đã dành cả đời tâm huyết truyền dạy để bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc.
Ông đang mong muốn có các hoạt động giao lưu, gắn kết giữa các làng đồng bào dân tộc thiểu số thuộc 2 tỉnh Gia Lai và Bình Định trước đây nay đã “về chung một nhà”.

Theo nghệ nhân Đinh Chương, hình thức giao lưu hay nhất vẫn là từ đội cồng chiêng của các làng. Trước hết, có thể khởi đầu giữa các đội cồng chiêng của người Bahnar ở xã Vĩnh Sơn (trước đây thuộc tỉnh Bình Định) và địa phương lân cận là xã Sơn Lang (trước đây thuộc tỉnh Gia Lai cũ).
Nghệ nhân Đinh Chương cho biết: Nghệ nhân cồng chiêng ở Vĩnh Thạnh trước đây cũng rất muốn giao lưu cồng chiêng với nghệ nhân Bahnar, Jrai ở tỉnh Gia Lai (cũ) nhưng còn trở ngại vì khác tỉnh. Nay cơ hội rất thuận lợi đã đến, nghệ nhân rất mong chờ được giao lưu trong các hoạt động, sự kiện văn hóa ở địa phương.
“Qua giao lưu mới có thể biết rõ hiện nay có sự tương đồng, khác biệt gì trong diễn tấu cồng chiêng giữa các làng người Bahnar ở các vùng khác nhau, giữa các làng người Bahnar với các làng người Jrai trong tỉnh Gia Lai mới. Từ đó, học hỏi những điều hay của nhau để chung tay bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng. Tin rằng, mai này thêm làng, thêm người cùng hòa nhịp, tiếng cồng chiêng sẽ càng vang lên rộn rã khắp núi rừng Gia Lai”-Nghệ nhân Nhân dân Đinh Chương hào hứng nói.