Mùa che mía

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Sau Tết, khi những đám mía lác đác phất cờ, ngọn chỉ còn dăm chiếc lá mọc sít nhau như hình nan quạt là lúc quê tôi bước vào mùa che mía. Từng nhóm khoảng mươi nhà hùn nhau mướn 1 bộ che (dân làng gọi là “ông Che”), chọn địa điểm thuận tiện, dựng chòi, coi ngày tốt động thổ mở lò, rước “ông Che”. Một năm thu hoạch nhiều loại hoa màu nhưng riêng vụ mía thì phải cúng mở lò.

Minh họa: Huyền Trang
Minh họa: Huyền Trang

Người mở lò phải là người có kinh nghiệm. Năm trước, ai mở mà lò xảy ra tai nạn thì năm sau người đó không được làm việc này nữa. Như thế, chủ che và chủ mía mới yên tâm. Vì có năm đang nấu, lò sập, đường hư, người bị bỏng!

Việc làm lò phải thật kỹ lưỡng để đảm bảo sự an toàn. Chọn chỗ đất cứng, đào sâu khoảng 1,5 m, chiều rộng, chiều dài phụ thuộc vào số chảo, phổ biến là lò 4 chảo. Đào xong, trét đất hoặc xây gạch xung quanh chống sạt lở, chừa miệng lò và lỗ thông hơi. Quan trọng nhất là làm bộ khung nắp lò, sao cho chịu được sức nặng của những chảo đường ở trên. Lấy mấy cây gỗ to, chắc, gác trên mặt lò, quấn dây thép gai bùng nhùng, dùng rơm trộn đất bọc lại để chống cháy, đặt chảo lên, tiếp tục trét cho kín mặt lò. Đợi mấy ngày cho khô, phải xông rồi mới nấu.

Người dân chặt mía không dùng dao, rựa mà dùng cuốc để “xỡng”. Giũa lưỡi cuốc thật bén, “xỡng” cả bụi mía rất nhanh, cây mía được chặt sát đất, phần gốc còn lại bằng siếng chớ không lởm chởm, đi chân trần trên đó không bị đâm. Đây là phần việc của đàn ông. Phụ nữ làm các việc nhẹ hơn: dùng câu liêm róc lá, trảy ngọn, lấy ngọn làm dây cột thân mía thành bó rồi trai tráng vác đến chòi để che ép.

Thời chưa có máy ép mía, bộ che được làm bằng những trục gỗ tròn, cứng. Kéo che là vài con bò đực to khỏe thay phiên nhau, cũng có con “bắt mánh”, đủng đỉnh đứng nhai lại, chủ phải cầm roi dứ dứ mới chịu kéo. Cho che ăn mía thường là một cu cậu choai choai, người lớn vác bã mía đem phơi khô làm bổi.

Tại lò, thợ nấu đường dùng vá lưới đan bằng kẽm, cán dài quậy đều, vớt bọt. Quá trình làm ra đường phải qua nhiều giai đoạn: nấu nước mía thành “chè hai”, tiếp theo là cô “chè hai”, múc đổ vào thùng đất (muỗng đường) miệng loe, đáy túm có lỗ, dùng nùn rơm nhét kín tạm thời, sau này rút ra cho mật chảy sạch, sản phẩm cuối cùng là đường.

Mùa che mía xóm làng khẩn trương, rộn ràng! Mía hạ xuống rào rào chen với tiếng cười nói rôm rả. Sau khi chặt, vườn tược thoáng đãng, nhà này với nhà kia tự nhiên thấy gần. Bã mía trắng phau phơi khắp mặt đất. Không khí thơm lừng mùi “chè hai”, mùi đường vừa chín tới. Những đêm trăng sáng, cánh con trai con gái có cớ gặp nhau, thỉnh thoảng phụ giúp chủ mía, chủ che đôi việc: con trai cột bó bổi ném vào lò, con gái cho che ăn mía. Chủ mía đãi họ gáo nước “chè hai” ngọt thanh, thơm dịu. Sẵn lò, có củ lang, củ mì gòn lùi một lát là chín, cả đám cùng ăn vui vẻ.

Từ ngày có nhà máy đường, cách chế biến thủ công không còn nữa. Nhưng mỗi khi có dịp nhìn cánh đồng mía bạt ngàn, ký ức mùa che mía dâng trào trong tôi với bao dư vị, như gáo nước “chè hai” đọng mãi trong tâm hồn.

PHAN VĂN THIÊN

Có thể bạn quan tâm

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

(GLO)- Đó là phát biểu của Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Châu Ngọc Tuấn tại hội nghị tổng kết 50 năm nền văn học nghệ thuật tỉnh Gia Lai sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) diễn ra vào sáng 23-4 tại Hội trường 2-9 (TP. Pleiku).

“Lặng lẽ trưởng thành” cùng sách

“Lặng lẽ trưởng thành” cùng sách

(GLO)- “Dáng vẻ của một người yên lặng đọc sách khá giống với những gì tôi cảm thấy khi nghĩ về một người đang trưởng thành trong lặng lẽ”-đó là cảm nhận của chị Trần Thị Kim Phùng Thủy-Trưởng ban Điều hành dự án “Văn hóa đọc Gia Lai” về giá trị sâu bền mà sách mang lại.