Mây bay từ độ… - Truyện ngắn của Trần Huyền Trang

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

1. Buổi chiều muộn kết thúc bằng bốn đợt bái lạy đầy nghiêm cẩn. Nắng rắc những tia cuối cùng bên hiên, trên giàn thiên lý đang sai hoa.

 

Diệu úp mặt vào lòng bàn tay vài giây trước khi đứng lên yếu ớt sau cả giờ ngồi nghe kinh. Tiếng ông thầy rõ ấm vang lên sau lưng, khi đi ngang người mẹ Diệu vẫn còn như một bông hoa đang ru mình sau cơn gió.

- Cụ đừng khóc nữa! Như vậy là không được đâu cụ ạ!

Diệu quỳ sau lưng nên không biết mẹ mình khóc. Sau bao nhiêu mất mát mà mẹ vẫn còn nước mắt để khóc, thì có quá ích kỷ không khi ông thầy cứ rỉ rả bảo mẹ cầu nguyện và cố gắng ngừng khóc. Mà ông thầy tụng đám còn trẻ lắm, áng chừng bằng tuổi Diệu chứ không hơn. Diệu nghe nói vậy thì biết vậy, không quan tâm. Khi ngồi trên chuyến xe đưa ba từ bệnh viện về nhà trong đêm để làm một cuộc đoàn viên cuối cùng, Diệu cũng kìm mình không khóc. Diệu chỉ biết nắm lấy bàn tay đầy xương vẫn còn hơi ấm của ông, thì thầm kêu ba ơi ba hỡi. Như tiếng Diệu vẫn hay kêu từ ngoài cổng mỗi sáng cô đi làm ngang nhà ba, tấp vào gọi í ới để trao cho ông khi bọc nui, khi tô cháo lòng dằn bụng buổi sáng. Hôm nào thèm thuốc quá, ba lén đi bộ qua tạp hóa gần nhà, gặp lúc Diệu trờ tới, ông giấu nhẹm gói thuốc lá trong lưng quần. Diệu biết, ra vẻ giận hờn vì ba “không nghe lời”. Ông chỉ cắm cúi nhận bọc đồ ăn rồi nhanh chóng khóa cổng, kêu “bây đi nhanh kẻo trễ giờ làm”.

Minh họa: Văn Nguyễn
Minh họa: Văn Nguyễn


Diệu có thù với thuốc lá. Từ lúc mới vô lớp một, Diệu vẫn nhớ như in ngày nào ba cũng biểu cô cầm tờ tiền nhàu nát đi bộ lên ngã ba, tấp vô quán bà Bảy Bô, kêu bả bán cho ba chừng đó tiền vừa thuốc rê vừa giấy quấn. Diệu suýt sặc mấy lần khi ngồi gần ba, lúc ba kéo xẹt que diêm khè ra lửa rồi châm lên cái điếu thuốc vê tròn dài như đầu đũa. Diệu nhăn mặt, chạy biến qua nhà con Mén chơi đồ hàng, chơi cả buổi quên luôn cơm nước vì ớn mùi thuốc rê khét lẹt, hôi rình của ba. Rồi sau này bà Bảy Bô quy tiên, chắc con bả rải thuốc vô hòm luôn hay sao mà thấy nhà không còn bán thuốc rê nữa. Ba chuyển qua hút thuốc lá gói, loại nặng đô hơn. Diệu nôn lên nôn xuống thiếu điều ra mật xanh mật vàng khi mang bầu đứa con đầu lòng, mỗi bận về thăm ba mà nghe mùi thuốc lá ám trong nhà. Mẹ Diệu nói ông có nhiêu tiền tiếc không dám mua quần áo mặc mà lại không tiếc tiền mua thuốc hút. Cái câu đó, mẹ vẫn còn mang ra lẫy hờn khi chị em Diệu đưa ba từ bệnh viện về. Ông mê khói thuốc quá chi để giờ đi theo nó như khói như mây.

2. Ba đi lính, vào sinh ra tử bao nhiêu lần, nhiều lần cõng xác đồng đội băng rừng về đơn vị giữa mưa đạn tơi bời, ông không bao giờ tin vào những điều huyễn hoặc. Ông còn biểu mẹ con Diệu rằng sau này ông chết, mấy mẹ con làm ơn đừng đốt vàng mã, đừng mời thầy tụng chi cho tốn tiền, để tiền đó cho đám cháu ăn học, có lý hơn!

Lúc bác sĩ trả về, ba còn muốn trăng trối thêm điều gì nữa, mà không nói được, chỉ thấy ứa nước mắt khi về đến nhà, nhìn mặt vợ con và đám cháu lần cuối. Diệu khi đó không nhớ gì, ngơ ngơ ngẩn ngẩn như một đứa trẻ con, chàng ràng bên chỗ nằm của ba, nhìn ông nằm yên không cục cựa nhúc nhích gì. Mãi đến bây giờ, mỗi khi xong cữ kinh cầu nguyện, Diệu chỉ nhớ mỗi một chỗ trống hở ra trong hàm răng dưới của ba. Ủa, ba rụng một cái răng hồi nào mình không biết? Đời lính tráng, ba kỹ nhất chuyện răng chuyện tóc. Lẽ tự nhiên, tóc ba “bay màu” theo số tuổi, nhưng hai hàm răng vẫn y nguyên, dù có xỉn màu vì khói thuốc lá. Cái khoảng trống nhỏ xíu chừng phân nửa cái móng tay thôi mà cứ khoét sâu vào tâm trí Diệu. Nó nhắc Diệu nhớ rằng trong suốt mấy năm qua, kể từ khi dọn ra ở riêng, Diệu chưa kịp nhìn kỹ khuôn mặt ba mình, đâu biết ba rụng răng hồi nào.

Nhưng mẹ Diệu thì nhớ hết, đương nhiên. Mẹ kể ba rụng cái răng hồi trước tết. Không đau, không nhức, tự nhiên rụng. Mẹ đã định kể cho chị em Diệu nghe, rồi bao nhiêu thứ rối bời lại khiến mẹ quên mất. Diệu nhắm hờ mắt, cố để tâm không động, nương theo tiếng kinh cầu và tiếng mõ vang lên trước mỗi lần vọng bái hòng quên đi tiếng rưng rức lặng buồn khều những sợi tóc lơ thơ run rẩy trên đầu mẹ.

3. Ông chú ruột bấm đốt tay, xoay tới xoay lui, đếm xuôi đếm ngược, lẩm nhẩm tính toán đâu một hồi. Chú tính sao đó mà mặt mày chú lại biến sắc, đen như than khiến chị em Diệu phát hoảng.

- Ba tụi bây mất ngay cung Càn, cung xấu lắm nghen bây!

Mấy chị em Diệu, ngoài những con số vây ngập đầu trong công việc làm ăn, có ai để ý đến cung mạng can chi để làm gì. Thậm chí, Diệu cũng nghĩ rằng nếu ba còn sống, ông cũng sẽ gạt phăng lời chú. Dù là hai anh em giống nhau như tạc từ khuôn mặt, tướng đi đến giọng nói, ba vẫn có cái khác chú rất nhiều ở việc chẳng bao giờ tin những điều không rõ ràng.

Mấy chị em Diệu giống ba ở cái tính cứng cỏi, chỉ trừ chị Hai. Chị trăn trở thao thức hoài từ hôm nghe chú phán chắc như đinh đóng cột “phải yểm!”. Rồi chị cũng nghe bùi tai hay sao, chị họp mấy mẹ con lại, nói “kiếm thầy đi!”. Diệu từ chưng hửng chuyển sang sửng sốt, bàng hoàng.
- Đâu có được! Ba có tội tình gì! Không có căn cứ gì để tin chuyện ma mị như vậy được!

Chị Hai trầm tư:

- Sao mình không hỏi ông thầy tụng? Biết đâu…

Ông thầy tụng chiêu một ngụm trà mát được ý tứ che khuất sau tay áo rộng rinh. Cái nóng của con nắng tháng đầu hè khiến mọi thứ như tan chảy. Mà nghiệt thay, cái ý nghĩ muốn trù yểm gì đó của ông chú ruột vẫn còn nguyên khối ở trong lòng. Chị em Diệu biết rõ chú sợ ba kéo chú theo. Người đàn ông dám đứng giữa trời tuyên bố không màng đến vợ con, làm được nhiêu tiền đều để “dành bao gái, thà nuôi con trăm họ còn hơn nuôi con mình”, bỗng một ngày run rẩy sợ “quéo cò” trước vận mệnh hạn số cuộc đời, rồi một hai đòi “yểm” người đã khuất để trừ hậu họa cho riêng mình. Diệu gọi tiếng chú mà nghe đắng chát đầu môi.

- Làm vậy thất đức lắm, nghiệt lắm, không nhẹ đâu thí chủ ơi!

Diệu nhìn mồ hôi chảy đầm đìa trên gương mặt hồng hào của ông thầy, những căng thẳng đang bủa vây bỗng dưng dịu lại. Những ngày rối bời với bao nhiêu thứ luẩn quẩn trong đầu, Diệu chưa một lần nhìn qua khuôn mặt ông thầy tụng một cách kỹ càng, chỉ biết tâm trí được nâng đỡ bằng những lời kinh như an ủi vỗ về của thầy. Lời kinh nhẹ như mây bay gió thoảng, tựa làn nước trong lành xoa dịu hết thảy.

4. Giàn thiên lý sau những ngày bị dạt qua một bên để tiện che rạp, và bị bỏ quên trong chừng đó ngày không một giọt nước, kỳ diệu thay vẫn sống và không ngừng vươn mình dài ra thêm một khoảng. Mẹ là người đầu tiên nhớ ra nó. Bà tưới nước, vuốt từng cái hoa đang nằm im rũ rượi trên giàn, ứa nước mắt. Mà mắt mẹ hình như lúc nào cũng ướt. Diệu không nhìn bà, chỉ nắm bàn tay đầy gân, cộm lên trong tay mình, sờ nắn. Mới hay đã lâu rồi mình chưa một lần cầm nắm bàn tay mẹ. Đôi bàn tay đó vốn đã không còn đẹp ngay từ thời tuổi trẻ, khi phải ngược xuôi lo lắng cho năm miệng ăn tất thảy, thì đẹp có nghĩa lý gì.

Diệu ước giá mà mình có sức mạnh vô hình nào đó, có thể luân chuyển mọi thứ. Ước gì bàn tay mẹ được đỡ nâng bao bọc trong đôi tay rắn rỏi của ba. Những hờn tủi có lẽ cũng được an ủi phần nào. Để giờ ba bóng chim tăm cá, mẹ cũng vơi bớt phần nào những nghĩ ngợi.

- Cô biết không, chúng ta không có sức mạnh vô biên để hóa giải mọi thứ. Nhưng chữa lành thì có thể.

Tiếng thầy tụng chậm rãi trôi qua Diệu trong buổi chiều lặng gió. Nắng rọi xuyên những chùm thiên lý hắt bóng xuống khuôn mặt đầy đặn hiền từ của ông thầy. Lần đầu tiên, Diệu dám nhìn thẳng vào mắt thầy, tìm một sự bằng an nào đó mà cô tin rằng mình sẽ gặp. Diệu chưa bao giờ nhìn thấy sự bằng an hiển hiện trong mắt chồng cũ của mình, dù chỉ là một thoáng ghé ngang nhà thắp cho ba nén hương, gửi ít quà bánh cho con Diệu rồi mất hút sau những dấu giày, còn chẳng ghé mắt qua khuôn mặt vợ cũ xem Diệu có ổn không. Nếu anh có hỏi, chắc Diệu cũng khe khẽ gật đầu nói mình ổn. Mà kỳ thực, liệu ai thực sự ổn sau những mất mát không gì bù đắp nổi?

Diệu mang khăn lạnh cho ông thầy lau mồ hôi. Không dưng mà lòng cô chùng lại.

Ông thầy bỗng nhiên im lặng, chỉ nhìn lên giàn thiên lý. Diệu đương nhiên không muốn phá vỡ giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi của thầy.


- Chuyện của cụ ông, chúng ta có thể dùng tâm đức để hóa giải. Mọi thứ rồi sẽ nhẹ như mây…

Sứ mệnh của mây là bay đi. Không gì có thể níu giữ. Thầy đưa cho Diệu một chuỗi tràng hạt gỗ màu nâu sẫm. Diệu chưa bao giờ sờ đến một chuỗi hạt nào giống vậy. Dù chỉ mới lần đầu chạm vào nhưng cảm giác gần gũi lạ kỳ. Mỗi một hạt là một giọt nước mắt từ bi của những đức thượng tôn đầy tình yêu thương. Những giọt từ bi ấy rồi sẽ tưới tắm lên lòng người đang hoang hoải rối bời giữa hơn thua được mất.

Mỗi buổi chiều, tay lần tràng hạt, Diệu ru mình trong những lời cầu nguyện. Diệu không cầu gì cho mình, chỉ cầu cho mẹ được nhiều sức khỏe, bình an cùng mình đi hết bão giông.

Trong những ngày ngược gió ra thăm ba, Diệu bỗng nhận ra mắt mẹ đã khô từ khi nào. Dáng mẹ cũng không còn nghiêng một bên như bông hoa sắp gục đầu từ tạ. Trên chuyến xe trở về, mẹ nói như chỉ để Diệu nghe.

- Mẹ con mình lên thăm thầy nghen! Nghe nói hôm qua thầy mới bị tai nạn, đang nằm viện. Mẹ lo!

- Liệu có kỳ không hả mẹ?

- Khờ quá! Thầy tụng cũng là một nghề tích đức tu thân, vẫn có thể gầy dựng một gia đình bình thường như bao người mà con!

- Ủa…

Mình khờ khạo đến vậy sao? Diệu không biết người mẹ lo nhất chính là Diệu. Như cái giàn thiên lý bị bỏ quên kia, con gái của mẹ cũng cần được tưới những giọt nước mát lành để có thể sống tiếp. Trong những buổi kinh cầu cho ba Diệu, bà nhìn rất kỹ khuôn mặt phúc hậu của ông thầy. Ánh mắt rất ấm của thầy mỗi khi hướng nhìn khuôn mặt con gái bà. Cũng chính bà lau những giọt nước mắt cho ông thầy tụng trẻ tuổi đó. Mất mát của bà và chị em Diệu có là gì so với mất mát của thầy. Người ta sẽ sống sao khi chỉ còn một mình trơ trọi lại trên đời? Những năm tháng đầy hoang hoải và lạc lõng khi từng người thân yêu vội vàng rời bỏ mình sau một cái chớp mắt, chỉ mình thầy hiểu rõ điều đó. Mất mát của Diệu, của bà, mất mát của hàng triệu triệu người khi cơn đại dịch lướt qua… cũng đều là một mất mát chung. Nó mang hình hài của nhớ thương tiếc nuối.

- Cụ có hình dung được không, chỉ trong một tuần, dịch bệnh lần lượt cướp đi của tôi ba người thân yêu nhất.

Trong cơn dịch sinh tử này, chỉ một cái chớp mắt là muôn trùng xa cách. Chỉ vài mét thôi mà rốt cuộc tôi vẫn mãi mãi không chào tạm biệt được một ai. Những bóng áo xanh trong bệnh viện đã thay tôi làm điều cuối cùng cho ba người họ…

Mẹ Diệu ngồi lặng yên, mặc bóng nắng ngả nghiêng trên vai mình. Bà thấy rõ ràng trước mắt mình một chàng trai phúc hậu, tạm cởi bỏ những bộ đồ lịch lãm, khoác lên mình chiếc nâu sòng, lần chuỗi hạt, tìm đến gốc bồ đề mong được ủi an bởi tiếng kinh cầu. Và rồi, nhờ chàng trai ấy, ông nhà bà cũng yên ổn thân tâm.

***

Đó là buổi chiều cuối tháng. Diệu không còn nhận ra “ông thầy” với lời kinh tiếng kệ như ru.

- Tạm biệt cô! Đây mới chính là phát tâm đúng đắn nhất mà tôi mới ngộ.
- Ừ vậy, thầy cứ đi! Xin chúc bình an và bảo trọng!

Giấu mình trong bộ đồ bảo hộ kín mít, lẫn vào trong nhóm tình nguyện viên tiếp tế lương thực cho tuyến đầu chống dịch, “ông thầy” vẫn không giấu được Diệu ánh mắt ấm áp sau cặp kính.

Diệu giấu vẻ bối rối vào áng mây treo bên ngoài kính xe, giật mình khi bắt gặp một vết khuyết giữa đám mây trắng bồng bềnh, y hệt cái răng rụng của ba. Ba đang cười với Diệu. Nụ cười dù đã khuyết mất một cái răng mà vẫn đẹp lạ lùng.

Cái đẹp đó, dù là ở hình thái nào, đầy hay khuyết, vẫn đẹp thôi mà. Chỉ cô là chưa kịp nhận ra…

Theo Trần Huyền Trang (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.