Bộ trưởng Bộ Tài chính: Lấy tăng trưởng làm gốc nuôi dưỡng nguồn thu

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News

‘Khi sản xuất-kinh doanh phát triển sẽ làm cho nguồn thu ngân sách Nhà nước nhiều lên, không chỉ bù đắp số thu giảm thu do thay đổi chính sách, mà còn tăng thu so với dự toán được giao’.
 

 Đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính. (Ảnh/TTXVN)
Đồng chí Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính. (Ảnh/TTXVN)


Nhân dịp xuân Tân Sửu, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã dành thời gian trả lời phỏng vấn Báo điện tử VietnamPlus về kế hoạch triển khai các giải pháp nhiệm vụ tài chính-ngân sách Nhà nước trong năm 2021 nhằm tạo tiền đề cho các năm tiếp trong trong nhiệm kỳ 2021-2026.

Tiếp tục rà soát chính sách hỗ trợ sản xuất

- Thưa Bộ trưởng, bệnh COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp trong năm 2021, hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn, trong khi vẫn phải thực hiện nhiều giải pháp về thuế, phí hỗ trợ doanh nghiệp nhằm nuôi dưỡng nguồn thu... Đây là một thách thức không nhỏ đối với hoạt động thu ngân sách Nhà nước. Xin Bộ trưởng cho biết những giải pháp chủ yếu sẽ được thực hiện để vừa hỗ trợ doanh nghiệp đồng thời đảm bảo mục tiêu thu ngân sách trong năm 2021?

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Theo đánh giá của các tổ chức tài chính quốc tế có uy tín (như Ngân hàng Thế giới-WB, Quỹ tiền tệ quốc tế-IMF...), kinh tế thế giới sẽ bước vào quá trình phục hồi trong năm 2021, sau khi đã bị suy giảm sâu trong năm 2020 do tác động nghiêm trọng của đại dịch COVID-19.

Tuy nhiên, quá trình phục hồi của các quốc gia là rất khác nhau bởi phụ thuộc vào diễn biến của đại dịch, cũng như khả năng phổ cập vắcxin phòng dịch.

Cụ thể, một số quốc gia nhờ kiểm soát tốt dịch bệnh mà hoạt động kinh tế đã cơ bản trở lại bình thường. Trong khi đó, dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp ở Mỹ và một số quốc gia châu Âu, gây ra những ảnh hưởng lớn đến khả năng phục hồi kinh tễ cũng như niềm tin của dân chúng.

Ngoài ra, cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn cũng ngày càng gay gắt, nguy cơ bất ổn tài chính toàn cầu gia tăng..., ảnh hưởng trực tiếp đến các động lực tăng trưởng. Năm nay, nhiều quốc gia tiếp tục áp dụng các chính sách hỗ trợ và kích thích tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội với giá trị rất lớn, nhằm bảo vệ việc làm và thu nhập tối thiểu cho người lao động.

Với Việt Nam, những thành quả đạt được trong năm 2020 về phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách Nhà nước là hết sức tích cực và đáng tự hào, đóng góp vào thành công chung của cả nhiệm kỳ 2016-2020, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, nâng cao uy tín và vị thế của đất nước trên trường quốc tế và khu vực.

Tuy nhiên, vẫn còn quá sớm để cho rằng chúng ta đã thoát ra khỏi khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, thêm vào đó những yếu kém nội tại của nền kinh tế vẫn chưa được xử lý dứt điểm. Trong nền kinh tế, sự phục hồi diễn ra không đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực. Hiện nay, một số ngành nghề vẫn còn rất khó khăn như du lịch, hàng không, khách sạn.... Bên cạnh đó, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn hạn chế, tiềm lực tài chính của cả khu vực Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân đều đã giảm đáng kể. Chưa hết, những rủi ro và bất định của kinh tế thế giới sẽ tiếp tục hạn chế dòng vốn đầu tư nước ngoài, ngăn cản hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch quốc tế.  Thêm vào đó, biến đổi khí hậu, diễn biến bất thường thời tiết... tiềm ẩn nguy cơ tác động không thuận đến sự phát triển kinh tế-xã hội và việc thực hiện các nhiệm vụ tài chính-ngân sách Nhà nước.

 

Những thành quả đạt được trong năm 2020 về phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách Nhà nước đóng góp vào thành công chung của cả nhiệm kỳ 2016-2020. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Những thành quả đạt được trong năm 2020 về phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách Nhà nước đóng góp vào thành công chung của cả nhiệm kỳ 2016-2020. (Ảnh minh họa/TTXVN)


Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ đặt ra tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép”-vừa phòng, chống đại dịch COVID-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội trong trạng thái bình thường mới đồng thời phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ thu ngân sách Nhà nước năm 2021 đã được Quốc hội quyết định.

Theo đó, trên cơ sở bám sát chủ đề: “Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển” và những trọng tâm chỉ đạo điều hành năm 2021 theo các Nghị quyết của Chính phủ số 01/NQ-CP và 02/NQ-CP, ngành tài chính sẽ tập trung thực hiện một số nhóm giải pháp chủ yếu sau:

Một là, điều hành chính sách tài khóa chủ động, chặt chẽ, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, linh hoạt với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác để tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng.

Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính cùng với các bộ, ngành chức năng nghiên cứu, đề xuất những giải pháp chính sách để tiếp tục hỗ trợ, duy trì quá trình phục hồi của nền kinh tế trong năm 2021; trong đó giải pháp về chính sách tài khóa đóng vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí đầu vào, tăng vốn khả dụng cho doanh nghiệp, thông qua việc tiếp tục rà soát, xây dựng và triển khai các giải pháp chính sách về thuế, phí, lệ phí phù hợp với tình hình thực tế, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh phục hồi và phát triển sản xuất-kinh doanh.

Với quan điểm lấy tăng trưởng kinh tế làm gốc để nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu, chúng tôi cho rằng các giải pháp về thuế, phí và lệ phí như nêu trên có thể sẽ làm giảm nguồn thu trong ngắn hạn. Nhưng khi sản xuất-kinh doanh phát triển, doanh nghiệp mạnh lên thì sự gia tăng về quy mô nền kinh tế sẽ làm cho nguồn thu ngân sách Nhà nước nhiều lên, không chỉ bù đắp số giảm thu do thay đổi chính sách, mà còn tăng thu ngân sách so với dự toán được giao.

Cho đến nay, việc đề xuất các giải pháp chính sách trên đang được các bộ, cơ quan liên quan tổ chức thực hiện để trình Chính phủ xem xét, quyết định trong thời gian gần nhất.

 

 Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ đặt ra tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép”-vừa phòng, chống đại dịch COVID-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội trong trạng thái bình thường mới. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ đặt ra tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép”-vừa phòng, chống đại dịch COVID-19, vừa phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội trong trạng thái bình thường mới. (Ảnh minh họa/TTXVN)


Hai là, ngành tài chính sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, cơ quan trung ương, cấp uỷ và chính quyền địa phương trong chỉ đạo công tác thu ngân sách, đảm bảo thu đúng, đủ, kịp thời các khoản thu phát sinh; phấn đấu thu ngân sách Nhà nước tăng 3% so với dự toán Quốc hội quyết định, tỷ lệ động viên vào ngân sánh khoảng 15,5%GDP đồng thời đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra thuế, quyết liệt xử lý nợ đọng thuế, giảm tỷ lệ nợ đọng thuế xuống dưới 5% tổng thu ngân sách Nhà nước.

Ba là, quyết liệt thực hiện các giải pháp đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 ngay từ đầu năm để tạo động lực và đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt và vượt mục tiêu đề ra. Theo đó sẽ gắn trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị với kết quả giải ngân; kiên quyết cắt giảm, điều chuyển vốn của các bộ, ngành, địa phương và các dự án có tỷ lệ giải ngân thấp sang các bộ, ngành, địa phương và các dự án có khả năng tốt hơn.

Bốn là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện tái cấu trúc, cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, tăng cường quản lý tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo hoàn thành dự toán thu về thoái vốn Nhà nước tại doanh nghiệp trong năm 2021.

Năm là, tăng cường kỷ cương, kỷ luật tài chính, ngân sách trong thực thi công vụ, công khai, minh bạch trong quản lý ngân sách Nhà nước, tài sản công, đất đai, tài nguyên, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại cũng như quản lý giá, thị trường chặt chẽ, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hóa, cắt giảm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, xây dựng chính phủ điện tử phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Gắn trách nhiệm để tăng giải ngân đầu tư công

- Giải ngân vốn đầu tư công nguồn vốn vay nước ngoài tại các bộ, ngành và địa phương đang gặp nhiều khó khăn, với cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vậy Bộ trưởng đánh giá điều này tác động đến nợ công quốc gia như thế nào cũng như những giải pháp tháo gỡ cho kế hoạch của năm tới và giai đoạn 2021-2025?

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Có thể nói, điểm sáng trong tổ chức thực hiện chi ngân sách năm 2020 là tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển tiến bộ hơn so với những năm trước. Ước tính đến ngày 31/12/2020, chi đầu tư phát triển đạt 82,8% dự toán và phấn đấu đến hết thời điểm khóa sổ kế toán năm 2020 (ngày 31/1/2021) đạt 92-93% dự toán. Tuy nhiên, giải ngân vốn đầu tư công nguồn vốn vay nước ngoài vẫn chậm và còn tới 26.000 tỷ đồng không thực hiện được, phải hủy dự toán.

Trên thực tế, giải ngân vốn đầu tư công nguồn vốn vay nước ngoài tại các bộ, ngành và địa phương gặp khó khăn do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan như: các dự án sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài chịu tác động của đại dịch COVID-19 nặng nề hơn so với các dự án vay vốn trong nước do hầu hết các hoạt động sử dụng vốn vay ODA và vay ưu đãi đều gắn với yếu tố nước ngoài từ khâu nhập máy móc, thiết bị cho đến huy động chuyên gia, nhân công, nhà thầu nước ngoài, tư vấn giám sát, dẫn đến nhiều dự án không có khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành nên không có hồ sơ thanh toán, không thể giải ngân.

 

 Việc giải ngân chậm vốn vay nước ngoài sẽ dẫn đến tình trạng rút ngắn thời gian giải ngân và các dự án sẽ phải vừa rút vốn vừa trả nợ hoặc kéo theo tình trạng hủy vốn với nhà tài trợ. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Việc giải ngân chậm vốn vay nước ngoài sẽ dẫn đến tình trạng rút ngắn thời gian giải ngân và các dự án sẽ phải vừa rút vốn vừa trả nợ hoặc kéo theo tình trạng hủy vốn với nhà tài trợ. (Ảnh minh họa/TTXVN)



Ngoài ra có các nguyên nhân chủ quan, trách nhiệm người sử dụng vốn chưa được đề cao, chất lượng chuẩn bị dự án chưa đạt yêu cầu, phải liên tục điều chỉnh, năng lực triển khai của chủ đầu tư còn yếu kém và chậm trễ trong công tác đấu thầu, ký hợp đồng, giải quyết tranh chấp giữa chủ đầu tư và nhà thầu…

Bên cạnh đó còn có các nguyên nhân do vướng mắc thực thi quy định pháp luật, như chậm giải phóng mặt bằng, vướng mắc trong tái định cư, vướng mắc trong triển khai các quy định mới liên quan tới quản lý định mức đầu tư, các thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án, sử dụng vốn dư và cơ chế tài chính các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài của Chính phủ cũng như cơ chế thế chấp tài sản đối với khoản vay lại của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Dễ dàng nhận thấy, việc giải ngân chậm vốn vay nước ngoài sẽ dẫn đến tình trạng rút ngắn thời gian giải ngân và các dự án sẽ phải vừa rút vốn vừa trả nợ hoặc kéo theo tình trạng hủy vốn với nhà tài trợ. Điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện dự án, hiệu quả sử dụng vốn vay trong bối cảnh nguồn vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài đang thu hẹp lại.

Để tháo gỡ cho kế hoạch của năm nay và giai đoạn 2021-2025, Bộ Tài chính kiến nghị các bộ, ngành, địa phương tiếp tục nâng cao trách nhiệm của đối tượng sử dụng vốn trong tất cả các khâu từ chuẩn bị dự án đầu tư, đến triển khai dự án và thanh quyết toán vốn vay, vốn đầu tư cho dự án, để tránh việc điều chỉnh dự án và phát sinh các vướng mắc trong quá trình giải ngân và có khối lượng để giải ngân.

Về kiểm soát chi, ghi thu ghi chi, các bộ ngành, địa phương cần khẩn trương hoàn thành thủ tục đề nghị giải ngân hoặc hoàn chứng từ đối với khối lượng đã hoàn thành được Kho bạc Nhà nước kiểm soát chi. Theo đó, các chủ dự án phối hợp với cơ quan cho vay lại, hoàn thiện hồ sơ thẩm định phương án tài chính đối với các dự án cho vay lại, thẩm định tài sản đảm bảo, để đẩy nhanh việc ký kết hợp đồng cho vay lại.

Đối với các dự án giải ngân theo kết quả đầu ra, các địa phương cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chủ quản chương trình, dự án ODA, tiến hành kiểm đếm kịp thời cho từng dự án, từng địa phương đã có khối lượng hoàn thành để làm thủ tục rút vốn, không chờ toàn bộ các địa phương hoàn thành mới tiến hành kiểm đếm.

Trong dài hạn, các chủ dự án cần tăng cường năng lực và trách nhiệm của đối tượng sử dụng vốn ở tất cả các khâu của dự án và kiên quyết cắt vốn đối với các dự án thực hiện không đảm bảo kế hoạch đề ra.

Đồng bộ các giải pháp về chính sách sách thuế

- Thuế là một trong những chính sách được coi là công cụ hữu hiệu đối với ngân sách. Tuy nhiên, năm nay cũng đánh dấu việc Việt Nam tham gia vào các cam kết về thuế trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và các đối tác song phương, đa phương, như gần đây nhất là Hiệp định RCEP. Xin Bộ trưởng cho biết các chính sách tài chính trong nước sẽ được điều chỉnh như thế nào để có thể theo kịp với lộ trình cam kết, nhưng không làm giảm đi sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế?

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Năm 2020 là năm ghi dấu thêm hai hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên: Hiệp định Thương mại tự do giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/8/2020 và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) được ký kết ngày 15/11/2020.

Như vậy, tính đến ngày 11/12/2020, Việt Nam có 13 FTA đang thực hiện, 1 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực, 1 FTA đã kết thúc đàm phán và 2 FTA đang đàm phán.

Để nghiêm túc tuân thủ cam kết thuế quan trong các FTA, Chính phủ đã ban hành 13 Nghị định về biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện các FTA áp dụng cho từng giai đoạn. Hiện mức thuế suất thuế xuất khẩu ưu đãi và thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại các Nghị định của Chính phủ nêu trên được áp dụng đến hết ngày 31/12/2022.

 

Tính đến ngày 11/12/2020, Việt Nam có 13 FTA đang thực hiện, 1 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực, 1 FTA đã kết thúc đàm phán và 2 FTA đang đàm phán. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Tính đến ngày 11/12/2020, Việt Nam có 13 FTA đang thực hiện, 1 FTA đã ký nhưng chưa có hiệu lực, 1 FTA đã kết thúc đàm phán và 2 FTA đang đàm phán. (Ảnh minh họa/TTXVN)



Các mức thuế suất này được quy định cụ thể cho từng năm theo đúng lộ trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam cam kết tại các FTA. Cụ thể, thuế suất trung bình cam kết trong các FTA giai đoạn 2018-2022 ở mức 3%-7%, trong đó cao nhất là Hiệp định FTA Việt Nam và Chi-lê và thấp nhất trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN.

Các cam thuế được xây dựng trên cơ sở phù hợp với năng lực của ngành sản xuất trong nước. Thuế suất được cắt giảm có lộ trình với một số nhóm mặt hàng đặc biệt thời gián sẽ dài hơn.

Theo đó, Bộ Tài chính đã tích cực, chủ động tham vấn, tuyên truyền tới các doanh nghiệp, ngành hàng trong nước để thực hiện hiệu quả cam kết thuế nhập khẩu. Qua thực tiễn về tăng trưởng kinh tế cũng như tăng trưởng xuất-nhập khẩu cho thấy các doanh nghiệp đã cơ bản hoạt động có hiệu quả trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Tôi khẳng định, Bộ Tài chính luôn chú trọng tới hệ thống các giải pháp đồng bộ để đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững, tạo môi trường chính sách thuận lợi, mang tính hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển.

Đẩy nhanh CPH, nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN

- Có thể nói rằng một trong những giải pháp để tăng nguồn thu cho ngân sách chính là cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, tiến trình này dường như vẫn chưa được khai thông để có thể về đích như mong muốn. Vậy theo Bộ trưởng, đâu là những lực cản và giải pháp cho vấn đề này là gì?

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng: Trước tiên, chúng ta phải khẳng định việc triển khai công tác cổ phần hóa không nhằm mục đích trực tiếp tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Cổ phần hóa cùng với thoái vốn chỉ là một trong các biện pháp để cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước.

Các nguồn thu về cổ phần hóa và thoái vốn sau khi được ưu tiên sử dụng để tái đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện Nhà nước cần nắm giữ theo danh mục quy định, phần còn lại được sử dụng cho chi đầu tư phát triển theo quyết định của Quốc hội; trong đó tập trung cho các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của vùng, khu vực và cả nước.

Và cụ thể, giai đoạn 2016-2020, nguồn thu này đã đóng góp 217.300 tỷ đồng cho nguồn chi đầu tư phát triển của cả nước.

 

 Giai đoạn 2016-2020, nguồn thu này đã đóng góp 217.300 tỷ đồng cho nguồn chi đầu tư phát triển của cả nước. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Giai đoạn 2016-2020, nguồn thu này đã đóng góp 217.300 tỷ đồng cho nguồn chi đầu tư phát triển của cả nước. (Ảnh minh họa/TTXVN)


Thời gian qua, thông qua cổ phần hóa, các doanh nghiệp được cơ cấu lại toàn bộ từ chiến lược, quản trị doanh nghiệp, thị trường, sản xuất, nhân sự, tài chính, khoa học công nghệ... Các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hầu hết đều hoạt động kinh doanh hiệu quả, tỷ suất lợi nhuận trên vốn và trên tổng tài sản cao, nộp ngân sách Nhà nước tăng.

Có thể thấy, giai đoạn 2016-2020, công tác cổ phần hóa đã đạt được kết quả đáng ghi nhận, như vượt kế hoạch đề ra về số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa (cổ phần hóa 178 doanh nghiệp so với kế hoạch là 137 doanh nghiệp), cổ phần hóa nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp lớn.

Tuy nhiên, nếu xét về số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc danh mục theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì vẫn chưa đạt kế hoạch (chỉ đạt 28%).

Nguyên nhân của tình trạng này, đầu tiên phải kể đến các yếu tố khách quan do bất ổn kinh tế-chính trị toàn cầu và sự bùng phát của dịch bệnh COVID-19 đến nay vẫn chưa có biện pháp đẩy lùi đã ảnh hưởng nặng nề đến thị trường tài chính, thị trường chứng khoán trong nước và thế giới.

Bên cạnh đó, một số nguyên nhân chủ quan vẫn còn là yếu tố thách thức, như việc lập kế hoạch cổ phần hóa chưa sát với thực tế triển khai, nhiều doanh nghiệp không chủ động triển khai các chính sách của Nhà nước, đến khi phải thực hiện cổ phần hóa mới bắt đầu thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất, từ đó ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa.

Một điểm đáng lưu ý, vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa. Dẫn đến, việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với các ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện lập, phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định về sắp xếp lại, xử lý tài sản công còn chưa tốt...

Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, về cơ chế chính sách, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 140/2020/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung Nghị định trước đây và qua đó đã tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp phát sinh trong thời gian qua.

Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 161/NQ-CP ngày 29/10/2020 về đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, trong đó giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan, đơn vị, tập đoàn kinh tế, tổng công ty thực hiện.

Hiện nay, Bộ Tài chính cũng đang xây dựng Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2021-2025 để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành, làm cơ sở tiếp tục triển khai cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động để doanh nghiệp Nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội./.

Xin trân trọng cảm ơn ông!


 

 Nâng cao hiệu quả hoạt động để doanh nghiệp Nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. (Ảnh minh họa/TTXVN)
Nâng cao hiệu quả hoạt động để doanh nghiệp Nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. (Ảnh minh họa/TTXVN)


Theo Hạnh Nguyễn (Vietnam+)

Có thể bạn quan tâm

Gia Lai quy định mức tỷ lệ % để tính đơn giá thuê đất xây dựng công trình ngầm, đất có mặt nước

Gia Lai quy định mức tỷ lệ % để tính đơn giá thuê đất xây dựng công trình ngầm, đất có mặt nước

(GLO)- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai Nguyễn Hữu Quế vừa ký ban hành Quyết định số 61/2004/QĐ-UBND quy định mức tỷ lệ phần trăm (%) để tính đơn giá thuê đất, mức đơn giá thuê đất xây dựng công trình ngầm, mức đơn giá thuê đất đối với đất có mặt nước trên địa bàn tỉnh.