*Kiến nghị:
Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu xây dựng chính sách, pháp luật khuyến khích đầu tư mạo hiểm.
*Trả lời:
I- Về các cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư mạo hiểm
Đầu tư mạo hiểm là lĩnh vực có nhiều rủi ro và chủ yếu liên quan đến khoa học và công nghệ (KH-CN), khởi nghiệp sáng tạo (KNST). Để khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thực hiện đầu tư mạo hiểm, các cơ chế, chính sách đã được ban hành cũng chủ yếu thuộc lĩnh vực KH-CN và KNST, cụ thể:
1. Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và các văn bản hướng dẫn đã có các quy định nhằm hỗ trợ cho DNNVV KNST và khuyến khích các tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư vào DNNVV KNST như sau:
- Theo quy định tại Điều 18 Luật Hỗ trợ DNNVV, Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11-3-2018 của Chính phủ quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV KNST:
+ Quỹ đầu tư KNST, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư vào DNNVV KNST (thông qua góp vốn vào Quỹ đầu tư KNST; hoặc góp vốn thành lập, mua cổ phần, phần vốn góp của DNNVV KNST) được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) có thời hạn đối với thu nhập từ các khoản đầu tư vào DNNVV KNST theo quy định của pháp luật thuế TNDN.
+ Địa phương được sử dụng ngân sách địa phương để cùng với Quỹ đầu tư KNST thực hiện đầu tư vào DNNVV KNST.
- Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 17 và Điều 20 Luật Hỗ trợ DNNVV, Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10-5-2019 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển DNNVV:
+ DNNVV KNST được cấp bù lãi suất đối với khoản vay tại các tổ chức tín dụng.
+ DNNVV KNST được Quỹ phát triển DNNVV thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho vay với lãi suất ưu đãi, hoặc tài trợ một phần chi phí thực hiện dự án, phương án sản xuất, kinh doanh.
2. Theo các văn bản pháp luật trong lĩnh vực KH-CN:
a) Căn cứ Luật KH-CN, Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17-10-2014 của Chính phủ quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH-CN:
- Theo quy định từ Điều 55 đến Điều 64 Luật KH-CN: Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ cho KH-CN.Tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp thực hiện đầu tư, tài trợ cho KH-CN được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật, được tôn vinh, khen thưởng, được quỹ trong lĩnh vực KH-CN xét hỗ trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, được hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh để vay vốn và các ưu đãi khác được quy định trong Luật.
- Liên quan đến Quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp: Doanh nghiệp được trích tối đa 10% lợi nhuận trước thuế để thành lập Quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp; trong đó doanh nghiệp nhà nước bắt buộc trích từ 3% đến 10% thu nhập tính thuế TNDN để thành lập Quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp (Điều 9 Nghị định số 95/2014/NĐ-CP).
b) Căn cứ Luật Chuyển giao công nghệ (Điều 35):
+ Doanh nghiệp được sử dụng Quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp để đầu tư, đối ứng vốn đầu tư cho KNST.
+ Doanh nghiệp đầu tư cho cơ sở vật chất-kỹ thuật hoạt động giải mã công nghệ, tổ chức, cá nhân thực hiện việc giải mã công nghệ được hỗ trợ vốn, bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ lãi suất vay vốn từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia.
+ Quỹ phát triển KH-CN, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia được nhận quyền tài sản (gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền khác phát sinh từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đối tượng sở hữu trí tuệ có thể xác định được giá trị) để bảo đảm cho giao dịch vay vốn đầu tư cho các dự án KNST.
c) Căn cứ Luật Công nghệ cao (khoản 2 và 3 Điều 24, khoản 3 và 4 Điều 25):
- Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế tham gia hoạt động đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao, thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao tại Việt Nam.
- Tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế TNDN theo quy định của pháp luật về thuế.
- Đối tượng được Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia đầu tư là tổ chức, cá nhân có ý tưởng công nghệ cao và kinh doanh công nghệ cao, có kết quả nghiên cứu sáng tạo về công nghệ cao, có công nghệ cao cần được hoàn thiện; DNNVV có dự án ứng dụng, sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công nghệ cao.
II- Về việc hướng dẫn triển khai các chính sách liên quan đến khuyến khích đầu tư mạo hiểm thuộc trách nhiệm của Bộ Tài chính
1. Về chính sách ưu đãi thuế:
Chính sách ưu đãi thuế được quy định tại các luật về thuế, thuộc thẩm quyền Quốc hội ban hành, trong đó đã quy định cụ thể chính sách ưu đãi thuế áp dụng cho các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích, ưu tiên phát triển theo chủ trương, định hướng của Nhà nước. Theo đó, trên cơ sở ngành nghề, lĩnh vực thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư theo pháp luật về đầu tư (trong đó đã quy định các ngành nghề thuộc đối tượng ưu đãi đầu tư gồm có: đầu tư kinh doanh chuỗi phân phối sản phẩm của DNNVV; đầu tư kinh doanh cơ sở ươm tạo DNNVV; đầu tư kinh doanh cơ sở kỹ thuật hỗ trợ DNNVV; đầu tư kinh doanh khu làm việc chung cho DNNVV KNST theo quy định của pháp luật về hỗ trợ DNNVV; đầu tư KNST...), Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp... hay pháp luật về tiền thuê đất đã có quy định cụ thể chính sách miễn, giảm thuế, tiền thuê đất tương ứng với từng ngành nghề ưu đãi. Đối với DNNVV, theo Luật Thuế TNDN không quy định cụ thể chính sách ưu đãi riêng với đối tượng này, tuy nhiên, trường hợp DNNVV hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề ưu đãi đã được quy định cụ thể tại luật hoặc thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư thì cũng được áp dụng chính sách thuế TNDN tương ứng với điều kiện thực tế đáp ứng. Ngoài ra, Luật Thuế TNDN có ưu đãi thuế TNDN của doanh nghiệp có dự án đầu tư mới thuộc lĩnh vực đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh mục ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao được áp dụng thuế suất 10% trong thời gian 15 năm, được miễn thuế tối đa không quá 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo.
Tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18-11-2016 của Bộ Chính trị đã đưa ra chủ trương hoàn thiện chính sách thu gắn với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc tế; hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế, bảo đảm tính trung lập của thuế, góp phần tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, khuyến khích đầu tư, điều tiết thu nhập hợp lý. Đồng thời, tại Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế-xã hội về thuế, phí như sau: sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, phí theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, gắn với cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế...
Hiện nay, thực hiện Quyết định số 2114/QĐ-TTg ngày 16-12-2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 19-KL/TW ngày 14-10-2021 của Bộ Chính trị và Đề án định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, Bộ Tài chính đã và đang thực hiện nghiên cứu, rà soát, đánh giá tổng thể các luật thuế để báo cáo các cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung vào thời điểm thích hợp theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế và tính thống nhất của hệ thống chính sách thuế, tạo thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, trong đó sẽ nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chính sách thuế theo hướng khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh lên doanh nghiệp, cũng như hỗ trợ phát triển đối với các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cho phù hợp.
2. Về chính sách cấp bù lãi suất cho DNNVV KNST theo quy định của Luật Hỗ trợ DNNVV:
Qua rà soát, chính sách cấp bù lãi suất quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV (Điều 17) và Nghị định số 80/2021/NĐ-CP ngày 26-8-2021 (Điều 26, 27) phát sinh nhiều vướng mắc, khó khăn. Do đó, Bộ Tài chính đã có Công văn số 1687/BTC-TCNH ngày 23-2-2023 báo cáo Thủ tướng Chính phủ và tại Công văn số 2651/VPCP-DMDN ngày 18-4-2023, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đã giao “Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu đề xuất của Bộ Tài chính tại Công văn số 1687/BTC-TCNH; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành để thống nhất phương án xử lý các vướng mắc trong việc hướng dẫn hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 80/2021/NĐ-CP; báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định”.
3. Về Quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp:
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 67/2022/TT-BTC ngày 7-11-2022 hướng dẫn về nghĩa vụ thuế khi doanh nghiệp trích lập và sử dụng Quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp; đồng thời, phối hợp tham gia với Bộ KH-CN trong quá trình xây dựng, ban hành Thông tư số 05/2022/TT-BKHCN ngày 31-5-2022 hướng dẫn sử dụng Quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp.
Như vậy, các chính sách nhằm khuyến khích đầu tư mạo hiểm đã được ban hành chủ yếu thông qua các văn bản luật (Luật KH-CN, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Công nghệ cao, Luật Hỗ trợ DNNVV). Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tài chính đã xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn; hoặc nghiên cứu, báo cáo cấp thẩm quyền về những vướng mắc trong hướng dẫn thực hiện chính sách.
Các văn bản luật nêu trên do Bộ KH-CN, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ trì xây dựng, trình cấp thẩm quyền ban hành. Do đó, Bộ Tài chính đề nghị cử tri tỉnh Gia Lai trên cơ sở tình hình thực hiện quy định pháp luật hiện hành, rà soát các vướng mắc và có đề xuất kiến nghị cụ thể tới cơ quan chủ trì xây dựng văn bản luật để nghiên cứu, sửa đổi và hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư mạo hiểm.