Từ phủ Hoài Nhơn đến tỉnh Gia Lai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. Tên gọi cũng được thay đổi theo tiến trình lịch sử, từ phủ Hoài Nhơn (1471) đến phủ Quy Nhơn (1602), phủ Quy Ninh (1651), lấy lại tên cũ Quy Nhơn (1742), dinh Bình Định (1802), trấn Bình Định (1809), tỉnh Bình Định (1832) và hiện nay Bình Định sáp nhập tỉnh Gia Lai có tên là tỉnh Gia Lai...

Thử điểm lại những mốc son quan trọng trên hành trình này.

1.

Theo Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1834, với sự miêu tả của Phan Huy Chú, ta có thể hiểu về diên cách của phủ Hoài Nhơn xưa. Phủ Hoài Nhơn nằm về phía Nam Quảng Nam, phía Tây giáp Ai Lao, phía Nam giáp bờ biển Chiêm Thành, tiền triều đã dựng bia trên núi làm giới hạn. Khi vua Thánh Tông đi bình Chiêm, ngài cho mài đá núi làm bia để làm ranh giới.

>Theo Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1834,Mối quan tâm của triều Lê là trục Bắc - Nam. Phía Nam là Chiêm Thành, phía Bắc là sự chống cự ý đồ xâm lược của phong kiến phương Bắc.  Đến thời chúa Nguyễn Hoàng giai đoạn 1558 - 1613, mối quan tâm hàng đầu vẫn là trục Bắc - Nam; theo đó phía Nam vẫn là đối sách với Chiêm Thành, nhưng phía Bắc là đối kháng với họ Trịnh. Trong sự phát triển thế và lực mang tính chiến lược của chúa Nguyễn, phía Đông và phía Tây cơ bản là thuận lợi. Biển Đông là nơi giao lưu buôn bán với nước ngoài tạo cơ sở vững mạnh cho nền kinh tế. Đối với phía Tây, vùng núi, nguồn xuất khẩu lâm thổ sản, cho nên chúa Nguyễn sử dụng những chính sách hòa hoãn, mềm dẻo.

Phủ Hoài Nhơn, trích từ “Hồng Đức bản đồ”. Ảnh: Tư liệu của NTQ

Phủ Hoài Nhơn, trích từ “Hồng Đức bản đồ”. Ảnh: Tư liệu của NTQ

Như vậy, 140 năm phủ Hoài Nhơn, sau là phủ Quy Nhơn (từ khi nhà Lê lập phủ Hoài Nhơn năm 1471 đến năm 1611 lập phủ Phú Yên), với vai trò là vùng đất trấn biên của Đại Việt, phủ Hoài Nhơn có một giới hạn địa vực rộng lớn nhất trong 13 đạo của Đại Việt lúc bấy giờ, bao gồm cả vùng duyên hải và cao nguyên trung phần, trong đó có tỉnh Gia Lai hiện nay.

2.

Theo An Nam đại quốc họa đồ của Tabert 1838, chúng ta thấy có 2 ranh giới: Ranh giới Cocincina interior seu Annam Đàng Trong; ranh giới Annam quốc seu Imperium Anamiticum, vượt qua sông Mê Kông đến Thanom núi Đòn Gánh. Qua nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, đến thời Minh Mạng công việc cụ thể cũng chỉ mới bước đầu.

Năm Tự Đức thứ 30 (1877), đặt nha An Khê để kinh lý 28 thôn vừa lập bên bờ sông Ba. Đến năm Đồng Khánh thứ 3 (1888), nha An Khê nhập với một phần đất phía Tây huyện Tuy Viễn lập ra huyện Bình Khê thuộc tỉnh Bình Định. Theo Hòa ước Giáp Thân - 1884, Pháp công nhận Trung kỳ có phần đất Tây Nguyên hiện nay. Đây là một vùng hoàn chỉnh, có thời là một nhưng có lúc chia thành nhiều tỉnh.

An Nam đại quốc họa đồ 1838. Ảnh: Tư liệu của NTQ

An Nam đại quốc họa đồ 1838. Ảnh: Tư liệu của NTQ

Năm 1898, thực dân Pháp yêu cầu được nắm trọn quyền hành chánh và trực tiếp cai trị các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, đặt tòa đại lý hành chính tại Kontum, đại lý Kontum trực thuộc tòa công sứ Quy Nhơn.

Năm 1913, tách Kontum gồm 3 đại lý: Đại lý Kontum, đại lý Cheo Reo, đại lý Daklak. Năm 1923, tách đại lý Daklak ra khỏi tỉnh Kontum, thành lập tỉnh Daklak. Năm 1925, lập đại lý Pleiku tỉnh Kontum. Năm 1932, tách đại lý Pleiku để thành lập tỉnh Pleiku. Trên cơ bản có thể thấy rằng, phần đất Kontum tách ra từ Bình Định đã hình thành nên ba tỉnh: Kontum, Pleiku và Đaklak.

3.

Sau chiến thắng Đồ Bàn, ngày mùng 1 tháng 3 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), Đại Việt mở đất đến núi Thạch Bi. Vua Lê Thánh Tông bổ nhiệm quan lại, tổ chức bộ máy cai quản bao gồm cả quan Chiêm và quan Việt, giao quyền rất lớn: “có kẻ nào không chịu theo, cho giết rồi tâu sau (Đại Việt sử ký toàn thư).

Từ đó, người Việt bắt đầu tiến dần vào lập làng sinh sống ở phủ Hoài Nhơn từ đèo Cù Mông (ranh giới Bình Định - Phú Yên hiện nay) trở ra; từ đèo Cù Mông trở vào mốc giới Đá Bia (ranh giới Phú Yên - Khánh Hòa hiện nay) là vùng đệm cho phần đất biên ải phía Nam, mặc dù trên danh nghĩa là đất của Đại Việt nhưng vẫn để cho người Chàm và các dân tộc khác ở.

Những cư dân đầu tiên đi mở cõi vùng đất viễn châu - Hoài Nhơn, ngoài dân nghèo vào lập nghiệp còn có lực lượng quân đội và đặc biệt là các phạm nhân trọng tội bị lưu đày cũng được biên chế vào lực lượng chiến đấu và sản xuất ở vệ Hoài Nhơn. Sách Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, chép rất rõ: “Tháng 4 (năm Hồng Đức thứ 5-1474) có sắc chỉ rằng: Tù xử tội lưu, đi cận châu thì sung vệ quân Thăng Hoa (Quảng Nam), đi ngoại châu thì sung vệ quân Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), đi viễn châu thì sung vệ quân Hoài Nhơn”.

Sau một thế kỷ mở đất, người Việt đã vào lập làng ở hầu hết vùng đất của phủ Hoài Nhơn từ chân đèo Cù Mông trở ra. Năm 1578, vào đời nhà Lê dưới thời Nguyễn Hoàng, Lương Văn Chánh được bổ nhiệm làm tri huyện Tuy Viễn “để dẹp yên trấn biên và chiêu tập dân xiêu tán đến Cù Mông và Bà Đài, lại khẩn ruộng hoang ở sông Đà Diễn” (Đại Nam nhất thống chí), đây chính là vùng đất thuộc Sông Cầu, Tuy An và Tuy Hòa của tỉnh Phú Yên ngày nay.

Từ sau năm 1578, người Việt đã đến lập làng sinh sống bên kia đèo Cù Mông, bắt đầu xóa bỏ “vùng đệm” của thời Lê Thánh Tông. Năm 1611, hai năm trước khi qua đời, Nguyễn Hoàng cho quân tiến vào chính thức thu lại toàn bộ phần đất của Lê Thánh Tông đã xác định mốc giới đến Đá Bia, lập ra phủ Phú Yên với 2 huyện: Đồng Xuân và Tuy Hòa.

Năm 1648, có một đợt di dân lớn trong lịch sử mở cõi vào vùng đất Quảng Nam, khi chúa Nguyễn đánh thắng quân Trịnh bắt hơn 3 vạn tù binh. Với cái nhìn sáng suốt, Chúa Nguyễn Phúc Lan cho thực hiện: Hiện nay từ miền Thăng (Thăng Bình), Điện (Điện Bàn) trở vào Nam đều là đất của người Chàm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí chia ra từng bộ, từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương để ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thì trong mấy năm, thuế má thu được có thể giúp quốc dụng và sau 20 năm, sinh sản ngày nhiều, có thể cho vào quân số có gì mà lo về sau.

Năm 1655, trong trận chiến vượt sông Gianh tấn công ra Nghệ An đánh chiếm 7 huyện phía Nam sông Lam, chúa Nguyễn bắt khá nhiều tù binh và nông dân Nghệ An đưa về lập làng ở Quy Ninh (Quy Nhơn). Trong số này có tổ tiên dòng họ ba anh em nhà Tây Sơn. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện, quyển 30, chép: Tổ tiên họ Nguyễn ở đất Tây Sơn vốn là họ Hồ, người “huyện Hưng Nguyên - Nghệ An, trong khoảng niên hiệu Thịnh Đức (1653-1657) nhà Lê, ông tổ 4 đời Nguyễn Văn Nhạc bị quân ta (chúa Nguyễn) bắt đem cho ở Nhất ấp vùng Tây Sơn, đất Quy Ninh (Quy Nhơn)...” (Nhất ấp: thôn An Khê, Nhị ấp: thôn Cửu An).

Từ cuộc chiến tranh với Lê - Trịnh, Chúa Nguyễn có thêm nhân lực khai khẩn đất đai, lập làng và nhanh chóng xây dựng vùng Hoài Nhơn thành vùng đất trù phú, nơi quy tụ hiền tài của xứ Đàng Trong và trở thành chỗ dựa vững chắc của chúa Nguyễn.

TX An Khê (Gia Lai) vinh dự đón nhận Bằng xếp hạng Quần thể Di tích quốc gia đặc biệt đối với “Quần thể Tây Sơn Thượng Đạo” (8.2022). Ảnh: NGỌC THU

TX An Khê (Gia Lai) vinh dự đón nhận Bằng xếp hạng Quần thể Di tích quốc gia đặc biệt đối với “Quần thể Tây Sơn Thượng Đạo” (8.2022). Ảnh: NGỌC THU

4.

Do phải tự thích nghi với môi trường thiên nhiên, tự khai khẩn đất đai để sinh tồn, những trọng phạm lưu đày vùng phía Tây phủ Hoài Nhơn nhanh chóng hòa nhập với cư dân địa phương. Và như một lẽ tự nhiên, họ tìm cách thoát khỏi sự quản lý của quan lại địa phương. Và vì thế họ dịch chuyển ngày càng sâu vào vùng rừng núi phía Tây mênh mông.

Theo PGS Diệp Đình Hoa, “Đối với người Cây Dừa (khu vực phía Tây phủ Hoài Nhơn), các vùng như Đông Dương, Hạ Lào đối với họ rất gần gũi, không có gì xa lạ, ghê rợn. Đối với lớp thương lái giữ được chữ tín, đến đời con, đời cháu đến các nơi mà cha hay ông của mình đã hoạt động, còn được đồng bào chấp nhận cư trú làm ăn...”. Người làm trong bộ máy giao dịch hay đồn binh (trước là trạm giao dịch) thường được chọn trong các thương hồ (thương lái). Tài liệu ghi chép trong sử cũ có nhiều cách gọi khác về những người này, như: thuộc lại, thừa biện, thông dịch…, phần lớn họ là người vùng Cây Dừa, nguồn Cầu Bông. Thời chúa Nguyễn, nguồn Cầu Bông (Phương Kiệu, An Khê) theo Lê Quý Đôn là một trong 7 nguồn của phủ Quy Nhơn có số thuế nộp nhiều nhất. PGS Diệp Đình Hoa cho rằng, thông qua con đường buôn nguồn này, người Việt từ phủ Hoài Nhơn/Quy Nhơn lên Tây Nguyên sinh cơ lập nghiệp lúc bấy giờ không ít.

Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai, cư dân Gia Lai có thể chia làm hai bộ phận: Bộ phận cư dân bản địa đã sinh sống ở Gia Lai từ lâu đời gồm dân tộc Jrai và dân tộc Bana, bộ phận cư dân mới đến chủ yếu là người Việt. Người Việt đầu tiên đến sinh sống ở khu vực An Khê (thuộc Hoài Nhơn xưa, Gia Lai ngày nay) từ cuối thế kỷ XVII. Tiếp theo lớp người đầu tiên này, những người Việt từ vùng Bình Định lên khai phá đất đai và lập nghiệp ở An Khê ngày càng đông. Những xóm người Việt mọc lên ngày càng nhiều bên cạnh những pơlei (làng) Bana, Jrai.

Tuy nhiên, cho đến đầu thế kỷ XIX, số lượng người Việt lên định cư tại Gia Lai vẫn rất ít, tập trung đông nhất ở khu vực An Khê. Bộ phận cư dân này sinh sống chủ yếu bằng nghề nông và buôn bán, trao đổi hàng hóa với đồng bào các dân tộc tại chỗ, hầu hết đều xuất phát từ Bình Định. Trong nội thị, làng người Việt đầu tiên là Hội Phú do ông Nguyễn Sĩ (chủ mộ) quê thôn Xuân Yên, xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, mộ được gần 20 gia đình lên lập làng tại địa điểm đầu đường Lê Lai hiện nay khoảng năm 1905. Dân ngày càng đông, sau tách ra lập thêm làng Hội Thương. Các làng được lập tiếp theo ở phía Bắc là: Tiên Sơn, Ngô Sơn, Hiển Sơn; phía Đông là: Phú Thọ, Nguyên Lợi, Quảng Định, An Mỹ, Trà Nhá; ngoài ra còn có làng Trà Đa (ở phía Nam chợ Biển Hồ ngày nay), Gia Tường (phía Đông đồn điền Bầu Cạn), Trà Bá, Thanh Bình, Phú Mỹ, Phú Thạch, Châu Khê, Phù Yên, La Sơn, Bửu Sơn (theo Lịch sử Đảng bộ TP. Pleiku).

Trong thời thuộc Pháp, vào những năm 1923 - 1945, chính quyền thực dân đưa một bộ phận người Việt từ vùng đồng bằng ven biển miền Trung, đa phần là người Bình Định lên làm công nhân trong các đồn điền chè, cà phê và các công trường làm đường, dọc QL 19.

Từ năm 1954 trở về sau, dân số người Việt ở Gia Lai tăng nhanh, trong đó có nhiều người Bình Định bị đưa lên các khu dinh điền do chính sách cưỡng ép di dân thời Ngô Đình Diệm và người dân Bình Định chạy tản cư tránh ác liệt của chiến tranh.

Mặc dù, có những khó khăn, cản trở về khí hậu, thời tiết, dịch bệnh nhưng lưu dân Bình Định vẫn tiếp tục lên Gia Lai lập nghiệp qua nhiều giai đoạn lịch sử. Trong quá trình đó, họ đã mang theo những yếu tố văn hóa của mình và tìm cách dung hợp với văn hóa bản địa trong môi trường mới, cũng như nhanh chóng học hỏi để đảm bảo cuộc sống lâu dài của mình trên cao nguyên. Yếu tố nguồn gốc, khả năng dung hợp, gắn kết máu thịt vừa kể là những điểm rất quan trọng được Đảng - Nhà nước tính đến khi xây dựng chủ trương sáp nhập hai tỉnh Bình Định với Gia Lai hiện nay.

NGUYỄN THANH QUANG

Có thể bạn quan tâm

Triển vọng “Cây cọ nhí” Nguyễn Trịnh Gia Thy

Triển vọng “Cây cọ nhí” Nguyễn Trịnh Gia Thy

(GLO)- 11 tuổi, Nguyễn Trịnh Gia Thy (học sinh lớp 5.9, Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, phường Pleiku) được nhiều người ưu ái gọi là “cây cọ nhí”. Những bức tranh của Thy không chỉ khéo léo về đường nét, bố cục, màu sắc mà còn chứa đựng những thông điệp ý nghĩa về cuộc sống.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Ngọn đèn nhỏ bên khung cửa

Ngọn đèn nhỏ bên khung cửa

(GLO)- Chồng tôi nhận quyết định chuyển công tác vào một sáng cuối tháng Năm, khi sương vẫn còn giăng mờ trên những con dốc quen thuộc của phố núi Pleiku. Tin anh phải xuống Quy Nhơn theo diện hợp nhất 2 tỉnh không bất ngờ.

Bảo vật quốc gia ngai vua triều Nguyễn đặt tại Điện Thái Hòa, Đại Nội Huế.

Phục chế ngai vàng triều Nguyễn: Trả lại nguyên trạng năm 2015, đảm bảo đúng tinh thần bảo vật quốc gia

(GLO)-Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VH-TT&DL) vừa có văn bản chính thức góp ý kế hoạch phục chế ngai vua triều Nguyễn, bảo vật quốc gia bị phá hoại hồi tháng 5 - 2025 tại điện Thái Hòa, yêu cầu phục hồi hiện trạng "gần giống nhất" so với năm 2015, thời điểm hiện vật được lập hồ sơ công nhận.

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

(GLO)- Vở diễn Trò chơi của quỷ do Ðoàn ca kịch bài chòi Bình Ðịnh (thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Gia Lai) dàn dựng vừa giành huy chương đồng tại Liên hoan Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ Công an nhân dân” lần thứ V-năm 2025.

Hòa hợp văn hóa, cùng chung chí hướng

Hòa hợp văn hóa, cùng chung chí hướng

(GLO)- 2 tỉnh Bình Định và Gia Lai (cũ) hợp nhất là cột mốc quan trọng trong hành trình phát triển vùng Duyên hải-Tây Nguyên. Cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội…, văn hóa nghệ thuật cũng được công chúng hết sức quan tâm.

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Tôi không phải một dịch giả chuyên nghiệp - mào đầu vậy hoàn toàn không phải để biện hộ cho những sơ suất, sai sót và thô lậu mà bất cứ ai khi chạm tay vào việc dịch nói riêng, việc chữ nghĩa nói chung, dẫu là tay thuận hay tay ngang, đều phải đối mặt và chịu trách nhiệm.

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Để chào đón thời khắc đặc biệt của đất nước, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ cao cả với vai trò, vị thế là cơ quan ngôn luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ mà người đứng đầu hệ thống Mặt trận đã tin tưởng giao phó; kể từ tháng 7.2025, Báo Đại đoàn kết ra mắt ấn phẩm Tinh hoa Việt bộ mới.
null