Khung cảnh khu nhà mả với hàng pơ lang lâu niên khoe sắc hoa đỏ rực giữa nền trời trong xanh và cả những cây đa, ngô đồng vươn tán rộng che bóng mát cho dân làng đang sửa soạn bữa tiệc cộng hưởng. Ngôi nhà mồ chuẩn bị làm lễ bỏ mả đã được làm mới xung quanh với tượng gỗ đủ các hình dạng…

Trước đây, anh em chúng tôi làm công tác văn hóa, giáo dục. Khi mới đặt chân đến Tây Nguyên, vì còn lạ lẫm với phong tục, tập quán của người dân bản địa nên hễ nghe nơi nào có lễ hội là chúng tôi đến để tìm hiểu, khám phá. Pơ thi còn gọi là lễ bỏ ma (lễ bỏ mả), là lễ hội lớn nhất, tiêu tốn nhiều thời gian và của cải, trâu, bò nhất trong các lễ hội vòng đời con người từ lúc sinh ra đến khi về với cõi Atâu-thế giới của hồn ma theo quan niệm tâm linh của người dân tộc thiểu số. Con người sau khi chết được người sống làm lễ bỏ mả thì sẽ về sống với “cộng đồng” ma.
Theo tín ngưỡng của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên thì các hồn ma rất linh thiêng, nếu như người sống không làm vừa lòng hay trái ý, họ sẽ về làm hại gia đình, buôn làng. Do đó, các gia đình rất chu toàn, chăm sóc cho người chết với sự thương mến và thành kính (khi chưa làm lễ bỏ mả); đồng thời, chia của cải một cách công bằng, thậm chí là ưu ái hơn nhằm làm cho “hồn ma” vừa lòng.
Cây nêu cao treo các tấm vải thổ cẩm mang hình hài con người với những chiếc ô hay nón lá trên đầu; phía dưới là chuông gió, chiêng tre liên hồi gõ khúc nhạc thiên nhiên như để tiễn đưa hồn ma về thế giới bên kia. Xung quanh khu nhà mồ là những dãy cột ging ga (gưng-Bahnar) buộc trâu, bò để chuẩn bị hiến tế. Bên trong nhà mồ của người đàn ông có những con dao, cái rìu, cái cuốc được tạc bằng gỗ mềm; có đàn t’rưng, đàn goong bằng tre và bầu rượu, bầu nước… Đối với nhà mả của phụ nữ thì có khung cửi cùng cuộn sợi bông dệt vải; cối chày giã gạo và những dụng cụ thường ngày lên nương rẫy…
Trong nghi lễ chính của pơ thi ở ngày đầu tiên, già làng đọc bài khấn hàm chứa nội dung còn mang dấu ấn tín ngưỡng xa xưa, đó là lời chia xa vĩnh viễn và mong cầu “hồn ma” qua thế giới Atâu đừng trở về nữa để gia đình sống an yên. Đây là bữa tiệc cuối cùng với rượu, thịt đầy đủ, của cải đã chia và người sống hết trách nhiệm với “hồn ma”.
Sau nghi thức tiễn biệt người chết, gia đình cùng cộng đồng bước vào cuộc vui, ăn uống, đánh chiêng, xoang… Tổ chức xong lễ pơ thi, nhà mồ bị bỏ hoang vì người nhà không còn đi lại chăm sóc nữa. Lâu ngày, nhà mồ sụp đổ thành bãi tha ma, không người lui tới.

Mùa pơ thi năm nay, chúng tôi tìm về địa bàn huyện Chư Păh. Làng Kép 1 và Kép 2 (xã Ia Mơ Nông) bắt đầu lễ pơ thi từ những ngày cuối tháng 2 cho đến giữa tháng 3 với hàng chục hộ lần lượt làm lễ bỏ mả cho người thân. Gia đình có điều kiện thì thường 3 năm (kể từ lúc người thân qua đời) sẽ làm pơ thi, song cũng có gia đình khó khăn, phải tích lũy hàng chục năm mới làm được lễ bỏ mả. Bà Rơ Châm Nghel (làng Kép 1) làm lễ bỏ mả cho chồng trong dịp này. Không những được anh chị em giúp vào rừng chặt tre nứa để chuẩn bị sửa sang nhà mả, bà Nghel còn được dân làng mang gạo, gà tới góp cùng. Họ còn phụ làm lán trại và thức trọn đêm với gia đình gia chủ để lo cho bữa tiệc tiễn đưa người mất. Thế mới thấy, pơ thi không chỉ là nét văn hóa tín ngưỡng mà còn thể hiện tinh thần đoàn kết, sự hội tụ, chia sẻ yêu thương của cộng đồng dân tộc ở Tây Nguyên.
Sau lễ pơ thi tại 2 làng Kép 1 và Kép 2, chúng tôi tiếp tục vào làng Mun, rồi làng Yăh (thị trấn Ia Ly) để tham dự lễ bỏ mả. Khi màn đêm buông xuống, ánh điện giăng đầy khu nhà mồ như một “thị tứ” giữa núi rừng. Ở đây có các xe tải bán hàng hóa, hoa quả, áo quần, gùi mỹ nghệ và đủ các thức ăn vặt… như một cái chợ thu nhỏ. Cũng như các làng Jrai khác, tại làng Yăh, nghi lễ bỏ mã cũng bắt đầu với việc già làng dâng rượu khấn vái Yàng, báo cáo với thần linh xin tiễn linh hồn những người quá cố về với tổ tiên. Trên các tấm ván quanh khu nhà mồ có nhiều lá ngal, lá pang và cả lá trầu. Ở đây có nghi thức lễ “đạp lá”. Con cháu trong gia đình tập trung trước cổng nhà mồ, miệng thầm thì khấn vái; dưới đất là một phiến đá được phủ lá pang sau khi đã hơ lửa chín; bên trái phiến đá là những chiếc lá pang khác đựng thịt trâu, bò còn tươi. Các thành viên lần lượt nhấc bàn chân lên, dùng ngón chân trỏ giẫm vào miếng thịt sống rồi trét máu tươi con vật hiến tế lên lá pang. Theo quan niệm, đó là gửi gắm tình yêu thương, cầu mong những linh hồn về với thế giới Atâu thuận lợi, bình an.
Nối tiếp hành trình, chúng tôi đến dự lễ bỏ mả tại các làng ở xã Ia Khươl và xã Ia Phí. Trở lại những nơi này, chúng tôi đều ngỡ ngàng trước sự đổi thay diện mạo so với trước đây. Nhà cửa khang trang, sạch đẹp. Bà con dân làng không còn thiếu ăn, thiếu mặc, thậm chí nhiều nhà còn sắm được xe ô tô; sở hữu những vườn cây bời lời, sầu riêng, cà phê, cao su… xanh tốt. Theo ông Rah Lan Ven-Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện Chư Păh: Bây giờ, người dân đã giảm bớt phần lễ, chỉ còn phần hội nhưng cũng không kéo dài như xưa.
Ngày nay, do các yếu tố khách quan lẫn chủ quan nên một số phong tục tập quán của cộng đồng các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên đã dần mai một. Những lễ hội theo chu kỳ nông nghiệp hay vòng đời con người đã phai nhạt. Nhiều buôn làng không còn tổ chức các nghi lễ truyền thống. Các khu nhà mồ cũng không còn là những khu rừng ma rậm rạp cây cối và u uất như trước đây mà trở thành một nghĩa địa tương đối hiện đại, thoáng đãng, nhà mồ lợp tôn, có bia ghi tên tuổi và hình ảnh người mất gần giống với các ngôi mộ của người Kinh.
Chỉ khác là các khu nhà mồ được rào chắn bằng cây gỗ cẩn thận; một số khu nhà mồ được dựng tượng gỗ; cây nêu được dựng lên trước khi làm nghi lễ… Thêm vào đó, bên trong khu nhà mồ, người nhà để những tài sản mà người chết thường dùng khi còn sống cũng như của cải chia cho họ.
Ngày xưa, nhà mồ của người Jrai H’drung (sinh sống ở vùng Pleiku và Chư Păh) được tạo dựng bằng những vật liệu tự nhiên. Người làng tận dụng hết khả năng sáng tạo, sự khéo tay của mình để tạo nên những ngôi nhà mồ mang nét truyền thống khá đẹp mắt với 2 mái to dài, thắt lại trên nóc cao như con thuyền, trang trí thêm hình mặt trời, mặt trăng cùng màu sắc hài hòa.
Tương tự, người Jrai Mthur phía Đông Nam (sinh sống ở vùng Krông Pa) có những nhà mả được thiết kế hết sức kỳ công với 4 mái nhọn cùng cột kút, cột klao cao vút được trang trí rực rỡ. Còn người Jrai Tpuăn, Jrai Arap cũng có những kiểu nhà mả được trang trí mang tính mỹ thuật cao; tượng nhà mồ đa dạng, ấn tượng. Công sức cộng đồng bỏ ra để tạo dựng nên một nhà mồ cho người chết được xem là một công trình tổng hợp tuyệt mỹ nhưng nó chỉ “sống” trong khoảnh khắc ngắn ngủi, để rồi chìm vào quên lãng, gửi vào núi rừng tự nhiên trong đời sống vô thường sau lễ pơ thi.
Ngày nay, cuộc sống hiện đại cũng đã tác động ít nhiều đến văn hóa truyền thống của người dân tộc thiểu số bản địa. Ngoài làm nhà mồ theo kiểu hiện đại, lễ pơ thi cũng diễn ra với nghi thức đơn giản hơn. Tuy nhiên, điều khiến nhiều người vẫn còn băn khoăn đó là việc sử dụng nhiều trâu, bò làm vật hiến sinh một cách lãng phí; đồng thời, khâu vệ sinh an toàn thực phẩm khi tổ chức lễ ở các khu nhà mả không được đảm bảo, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Dù rằng trong quan niệm của nhiều gia đình đồng bào dân tộc thiểu số bản địa, chăn nuôi trâu, bò là để dùng vào việc tế lễ theo phong tục, song sự phung phí thái quá trong các lễ hội là điều phải cân nhắc, tránh tình trạng một mùa lễ hội trôi qua để lại cảnh nợ nần, túng thiếu cho mỗi gia đình.
