Vườn hoang

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
Nhà ông Phệnh cách nhà nội tôi một cái hàng rào thưa. Mỗi sáng thức dậy, đứng bên hiên nhìn qua, tôi đã thấy ông lúi húi làm vườn, cái ấm nhôm cáu đen đựng nước chè tươi để gần đó. Nghỉ tay, ông rót ra một ly uống ừng ực rồi lại cắm mặt làm cho đến khi mặt trời đứng bóng.

Ông Phệnh sống một mình, không vợ không con nhưng người xóm tôi vẫn nói vui rằng ông có một đứa con. "Đứa con" này là Vâu - con chó bị người ta vất ngoài chợ, tình cờ thấy ông đi qua nó lẵng nhẵng bám theo về nhà. Con Vâu ở với ông Phệnh hơn mười năm nhưng cái chứng ghẻ lở vẫn đeo đẳng. Nó ghẻ đến nỗi lông trên lưng trụi lủi, thay vào đó lớp da cóc cáy. Con Vâu xấu xí là vậy nhưng ông Phệnh cưng như trứng mỏng.

Ông Phệnh lầm lì, ít nói, cả ngày quần quật ngoài vườn, nghỉ tay là lại ôm con Vâu mà hôn hít. Trong xóm, người quý ông Phệnh nhất phải kể đến bà tôi. Bà thương ông cái nết hiền lành chăm chỉ. Nhắc tới ông Phệnh, bà có một câu muôn thuở: "Cái thằng hiền lành giỏi giang, đàn bà con gái làng này đứa nào có duyên gặp nó thì sướng một đời".

Lần nào nghe câu đó ông Phệnh cũng cười, mặt cặm xuống chân, vẻ ngại ngần. Ông biết mình xấu, gương mặt khó coi với một bên má lõm vào như cái hốc, khiến con mắt cũng bị kéo xuống để lộ con ngươi nhờ ố, lúc nào cũng như đang trợn trừng người khác. Một sự tàn nhẫn của số phận! Đã vậy, thân hình ông lại đen như củ súng, quanh năm chỉ hai bộ đồ vải thô bạc phếch, giặt xong phơi lên, có khi chưa khô đã lấy xuống mặc tiếp.

Bà tôi thấy ông Phệnh thui thủi một mình thì thương. Trong xóm có cô nào quá lứa chưa chồng, bà cũng mon men ướm hỏi cho ông. Xóm trên có cô Liếng, cô Dành; xóm dưới có cô Nhu, cô Thỏa. Ai cũng xấp xỉ bốn mươi, lại không xinh nhưng nghe bà tôi nhắc đến ông Phệnh, cô nào cô nấy ngúng nguẩy :"Ai mà ưng cái người kỳ dị đó, con ở vậy còn sướng hơn!". Bà tôi riết rồi cũng hết hy vọng kiếm cho ông Phệnh một cô vợ. Ông như hiểu, chỉ cười buồn khi nghe tin bà lại đánh tiếng nhắm nhe mối khác.

Minh họa: Hoàng Đặng

Minh họa: Hoàng Đặng

Bà nấu gì ngon cũng múc một tô biểu tôi bưng qua cho ông Phệnh, khi tô canh khoai mỡ, lúc lại chén chè đậu đỏ. Có vài cái bánh bột mì chiên, bà cũng biểu tôi đem qua. Tôi thích được bà sai qua ông Phệnh để ngồi đong đưa trên cái võng coi ông nựng con Vâu. Ông gọi nó bằng con, xưng ba, cứ như cha con ruột.

… Ánh nắng xiên khoai đến tận hiên, ông tôi qua xóm bên đánh cờ vẫn chưa về. Tôi ngồi trên chiếc giường tre gãy vạt nhổ tóc sâu cho bà, vừa nhổ vừa trông chừng đàn gà mổ nong lúa trong sân. Bên kia, nhà ông Phệnh im ắng, ông đi đâu từ sớm. Bỗng cánh cổng tre ken két mở ra, ông Phệnh lao vào. Trên tay ông, một con vật lông xám rũ xuống, không rõ là con gì. Tôi chạy đến bên hàng rào nhón chân nhìn cho rõ. Thấy tôi, ông kêu lên: "Mau qua đây bác nhờ chút!".

Tôi qua đến nơi đã thấy con vật kia nằm thõng thượt trên cái sân gạch. Hóa ra đó là một con khỉ, hai chân sau bê bết máu, mắt nhắm nghiền, từ miệng nó phát ra tiếng ché ché yếu ớt. "Coi nhà có bông băng, đem qua cho bác!".

Tôi chạy về, đem qua cuộn băng còn sót lại của bà. Ông Phệnh lau rửa vết thương cho con khỉ. Lúc này tôi mới để ý sau lưng ông lấp ló một con khỉ nữa. "Con này bị sập bẫy heo rừng, còn con kia là bạn nó theo về tới đây, đuổi cách gì cũng không đi" - ông giải thích. Băng bó cho con khỉ xong, ông để nó nằm lên tấm áo cũ lót bên trong cái mủng. Con khỉ bạn lúc này mới mon men lại gần, sờ vào con kia, mắt rơm rớm. "Giờ bác tính sao?" - tôi hỏi. "Để nó ở đây, chừng nào lành thì đem hai đứa nó về rừng chứ sao giờ".

Con khỉ bạn mới đó đã dạn dĩ, chạy quanh sân ngó nghiêng rồi lại gần cào vào tay ông Phệnh như muốn cảm ơn. Tôi đến gần, nó lùi lại cảnh giác, chạy nấp sau cái lu đựng nước mưa.

Từ lúc thấy ông Phệnh đem con khỉ về, con Vâu gầm gừ chạy quanh vườn đánh dấu lãnh thổ. Ông thấy vậy biểu nó lại, thầm thì câu gì đó. Lập tức nó lại gần con khỉ bị thương, khẽ liếm láp như bày tỏ tình cảm.

"Con Vâu từ nay được làm anh rồi. Còn hai con khỉ bác đặt tên là gì?" - tôi hỏi. Ông Phệnh cắm cúi cưa mấy tấm ván đóng cho hai con khỉ cái nhà, ngẩng lên chỉ: "Con này sập bẫy gần bụi dủ dẻ, đặt tên Dủ, con kia tên Dẻ cho tiện". Nói rồi ông cười hả hả.

Từ ngày có Dủ và Dẻ, nhà ông Phệnh lúc nào cũng vui như Tết. Tụi con nít trong xóm rảnh lại kéo tới nhà ông coi Dủ, Dẻ làm trò. Chừng hai tuần, chân con Dủ đã lành, nó bắt đầu leo trèo khắp vườn. Buổi chiều, thấy tôi qua nhà, ông Phệnh vẫy lại: "Mai bác cho hai đứa về rừng, chân con Dủ lành rồi". "Để tụi nó ở đây đi bác" - tôi nài nỉ. "Tội nghiệp, chỗ của tụi nó là rừng" - ông cười buồn.

Ông Phệnh sửa soạn cho Dủ, Dẻ lên đường, trước khi đi còn lột hai trái chuối chín cho ăn. Tôi đứng nhìn theo bóng ông xa dần. Sau lưng ông, con Dẻ chạy nhảy thoăn thoắt. Con Dủ chân đã lành nhưng ông vẫn cho nó ngồi trong cái mủng đội đầu. Bên hiên, con Vâu nằm dài, miệng rúc vào hai chân buồn thiu.

Chiều tắt nắng, ông Phệnh trở về, dáng vẻ lầm lũi đi thẳng đến cái nhà gỗ của Dủ, Dẻ đứng bịn rịn một lúc rồi khiêng nó ra để ở góc vườn. Ông đứng nhìn cái nhà thiệt lâu rồi buồn bã quay vào.

Từ ngày Dủ, Dẻ về rừng, con Vâu buồn xo, đứng bên này nghe tôi gọi nó chẳng thèm ngẩng lên. Chiều muộn, ông Phệnh vẫn còn cặm cụi lát lại mấy tấm đanh bên giếng. Tôi ngồi vuốt ve con Vâu, thấy đuôi nó bỗng ngúc ngoắc, bất thần nó lao ra cổng sủa inh ỏi. Tôi chưa kịp nhìn ra đã thấy con Dẻ vào đến hiên, sau lưng nó, con Dủ nhúc nhắc đi như ông cụ.

Nghe tiếng tôi kêu tên Dủ, Dẻ, ông Phệnh đóng tấm đanh cuối cùng vội ngẩng lên, đứng sững nhìn hai đứa nhảy chồm chồm mừng vui. Thả rơi cái bay xuống đất, ông lao vào sân, mắt ngấn nước nhưng vẫn làm bộ nạt vài câu lấy lệ: "Về rừng mà ở đi! Bu chi mà bu quá chừng!".

Dủ, Dẻ ở cùng ông Phệnh bao nhiêu năm, tôi không còn nhớ nữa. Chỉ nhớ, một buổi chiều bà tôi đi về, hớt hải vo gạo bắc nồi cháo rồi quày quả qua nhà ông Phệnh, tay cầm theo chai dầu Nhị Thiên Đường.

Ông Phệnh đột ngột ngã bệnh, nằm chừng một tuần thì qua đời. Ông đi nhẹ nhàng nhưng cũng khiến cả xóm tôi thương xót. Bà tôi qua nhà nấu cho tô cháo, ông tôi xách nước tưới mấy luống rau. Con Vâu không rời ông Phệnh nửa bước, nó ngồi chầu hẫu nhìn ông thiêm thiếp trên tấm phản. Như linh cảm, Dủ, Dẻ cũng thôi leo trèo phá phách, ngồi bên hiên ngơ ngác nhìn mọi người xao xác vào ra.

Ông Phệnh trút hơi thở cuối cùng. Trước khi đi, ông gượng dậy vẫy con Vâu lại gần, run run xoa cái lưng gầy của nó. Dủ, Dẻ thấy vậy cũng lao tới. Ông Phệnh đưa bàn tay về phía tụi nó nhưng không kịp nữa rồi. Ông gục xuống.

Cả xóm đưa ông Phệnh ra đồng vào một buổi chiều cuối đông lạnh ngắt. Vâu và Dủ, Dẻ cũng lẳng lặng theo đoàn người cho đến khi nắm đất cuối cùng lấp lại.

Ông bà tôi ngày ngày qua lại coi sóc căn nhà của ông Phệnh, đợi người thân ông về sẽ giao lại cho họ. Mỗi bữa nấu cơm, bà tôi nấu dư ra một ít cho con Vâu. Trong vườn có trái cây chín, bà lại cất dành đem qua nuôi Dủ, Dẻ.

… Năm ngày rồi, con Vâu bỏ ăn, nó ngồi nhìn chén cơm bằng đôi mắt buồn bã, người gầy rộc đi. Đến ngày thứ sáu, bà tôi vẫn kiên trì đem cơm qua dỗ dành nhưng chẳng thấy nó đâu. Bà chạy quanh xóm tìm nó, gặp ai cũng hỏi nhưng tuyệt nhiên không ai biết con Vâu đi đâu về đâu.

Bên hiên, ông tôi thôi đốt thuốc, chầm chậm đứng lên khoác áo ra ngõ đi về phía đồng trên. Bên nấm mộ ông Phệnh còn tươi mới, con Vâu nằm đó mắt nhắm nghiền, thân hình lạnh ngắt từ bao giờ.

Nó đã chết.

Ông tôi chôn con Vâu bên bụi duối. Chỗ này nhìn xuống là cánh đồng, cách không xa nấm mộ của ông Phệnh. Bà tôi mỗi ngày vẫn vén hàng rào qua nhà, đem cho Dủ, Dẻ trái chuối, chén cơm. Ông tôi nhìn hai đứa, yên lặng không nói gì, chỉ nghe tiếng ông thở dài thật khẽ.

Chiều đã sậm, những tia nắng cuối cùng trong ngày xiên qua vòm lá xuống sân, vẽ thành những vệt sáng lay động khi gió lướt qua. Bên vườn, tiếng Dủ, Dẻ bỗng ché ché liên hồi. Ông bà tôi chạy qua đã thấy Dủ, Dẻ trèo lên cánh cổng tre, đầu cúi rạp xuống như chào tạm biệt. Ông bà chưa hiểu chuyện gì, Dủ, Dẻ đã chạy về hướng đồi trọc, nơi ngày trước ông Phệnh phát hiện thấy hai đứa và đem về nhà. Tôi nhìn theo bóng Dủ, Dẻ lúc này chỉ còn là hai đốm xám nhỏ xíu cho đến khi chúng mất hút vào màu xanh cây cỏ.

Ông Phệnh không còn nữa, con Vâu đã theo ông, Dủ, Dẻ cũng trở về rừng. Căn nhà ông Phệnh, ông bà tôi vẫn qua lại coi sóc nhưng từ bao giờ, khu vườn đã trở thành vườn hoang. Lạnh lẽo. Hoang tàn.

Bà tôi có thói quen mỗi ngày vẫn ra hàng rào đứng ngó mông lung. Ông tôi chiều chiều lại ra ngõ nhìn về đồi trọc khẽ thở dài. Tiếng thở ấm áp, nhẹ tênh như những buổi chiều nhìn qua hàng rào thấy ông Phệnh dọn cơm ra sân gạch. Bên cái mâm nhôm móp méo, ba đứa xúm xít quanh ông như ba đứa con thơ. Vừa ăn, ông vừa đút con Vâu một miếng rồi quay qua bên kia chia thức ăn đều ra cho Dủ, Dẻ...

Tiếng bà tôi đến hôm nay vẫn nồng ấm khi nhắc tới "nhà bên đó": "Ờ, rồi cuối cùng thằng Phệnh cũng có một gia đình".

Truyện ngắn VŨ NGỌC GIAO

Có thể bạn quan tâm

Chòi rẫy

Chòi rẫy

(GLO)- Trong rẫy của người Jrai bao giờ cũng có một cái chòi. Sau khi thu hoạch nông sản, tất cả sẽ được cất giữ tại chòi rẫy.
Thương những bờ xanh

Thương những bờ xanh

(GLO)- Từng có những bờ xanh thật xanh, mãi cứ ngời biếc ở một khoảng nào đó trong tâm thức chúng tôi, những đứa trẻ đã từng lớn lên giữa trong lành xa xưa ấy.
Nhà

Nhà

(GLO)- Bạn từ phố về quê chơi. Suốt đêm đầu tiên, tôi nghe tiếng bạn trở mình, lục đục đi ra, đi vào. Sáng dậy, mắt bạn đỏ kè, ngồi uống cà phê còn ngâm nga câu: “Thức đêm mới biết đêm dài”.
Ngóng mẹ đi chợ về

Ngóng mẹ đi chợ về

(GLO)- Ngóng mẹ đi chợ về luôn là cả một niềm yêu thích với tuổi thơ của chị em chúng tôi. Mỗi lần mẹ đi chợ là chị em mau mải chạy ra cổng hoặc tận đầu ngõ, trốn dưới một bóng cây nào đó và mắt thì cứ liên tục ngóng ra phía mẹ đi về.
Chuyện tình ở xóm Đá Côi

Chuyện tình ở xóm Đá Côi

“Đá Côi”, tên xóm có từ khi nào không ai biết, kể cả ông Sáu, người lớn tuổi nhất vùng lớn lên từ thời Pháp thuộc, trải qua 20 năm kháng chiến chống Mỹ, giờ vẫn còn trụ lại với bà con nhiều thế hệ.
Ngồi ngắm sương mù

Ngồi ngắm sương mù

(GLO)- Nhiều lần, tôi thấy mình cứ nhớ thương một thứ gì đó rất mơ hồ, hình như là sương mù. Bạn tôi cười bảo: “Sương mù ở đâu mà chẳng có, ngay trong thành phố này, cứ thức dậy thật sớm để chạy bộ ven hồ, trong công viên... là thấy được sương mù giăng tầng tầng lớp lớp”. 
Chờ mùa

Chờ mùa

(GLO)- Ông bà thường nói: Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy! Đó là khi trời oi bức, khô hanh, chứ lê rê mãi hoài món “đặc sản” mưa cao nguyên thì quả thực là... rát mặt. Thức dậy trong tiếng mưa rơi ràn rạt trên mái hiên sau một đêm chập chờn, hẳn là nhiều người sẽ có tâm trạng chờ mùa, chờ nắng.
Nhớ thu xưa

Nhớ thu xưa

(GLO)- Ngày ấy, khi những cây mù u trong vườn nhà nở chùm hoa trắng phảng phất hương thơm thì tôi biết trời đã sang thu.
Thân thương quà tặng

Thân thương quà tặng

(GLO)- Tặng quà và nhận quà là một phần trong cuộc sống của mỗi người, trong mọi nền văn hóa. Dù ở hoàn cảnh khác nhau, món quà không giống nhau, nhưng tình cảm dành cho nhau luôn là điều đáng quý.
Nỗi lo mùa mưa

Nỗi lo mùa mưa

(GLO)- Hồi trước, vào những ngày mưa dầm, má tôi thường nhìn trời mà than: Mưa vầy đồng ngập nước hết, lúa hư lấy gì mà ăn đây!
Gác bếp ngày mưa

Gác bếp ngày mưa

Nhìn cơn mưa đổ xuống như trút mà hắn thở dài. Cả tháng nay mưa liên miên. Mưa lang thang qua những mái ngói nâu trầm, rỉ rả trong từng kẽ hở của thưng ván.
Sự chân thành

Sự chân thành

(GLO)- Sau khi bố mất, bạn tôi đưa mẹ lên thành phố sống cùng. Vì vốn quen với cuộc sống nông thôn, với anh em, hàng xóm láng giềng ở quê nên bà thường bảo buồn, muốn về nhà. Con cái động viên kiểu gì bà cũng không chịu ở.

Hoàng hôn Tây Nguyên

Hoàng hôn Tây Nguyên

(GLO)- “Người đã hẹn đi về phía núi/để thấy hàng thông châm lá vào chiều/khi nỗi nhớ gối lên hoàng hôn ngủ/ta thành ngọn đá chờ trông”. Văng vẳng bên tai mấy câu thơ trong bài “Đá núi” của tác giả Lữ Hồng, khi tôi đang lặng người ngắm hoàng hôn buông nơi núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.
Hương mùa thu

Hương mùa thu

(GLO)- Miền Trung quê tôi không có mùa thu như ngoài Bắc. Nhưng ấn tượng về mùa thu trong tuổi thơ tôi là mùa thị chín vàng ươm.
Căn bếp ngày xưa

Căn bếp ngày xưa

(GLO)- Con trai tôi từ nhà hàng xóm trở về với khuôn mặt đầy nhọ. Thằng bé nhoẻn miệng cười tươi, trên tay là củ khoai lang nướng. Con đưa tay quệt ngang trán, lớp nhọ trộn lẫn với mồ hôi khiến mặt càng thêm nhem nhuốc. Chỉ bấy nhiêu thôi mà lòng tôi lại rộn lên bao xúc cảm.

Chiếc đèn bão

Chiếc đèn bão

(GLO)- Mấy hôm nay, trời mưa dầm dề khiến tôi lại nhớ tới chiếc đèn bão. Mẹ tôi nói, chiếc đèn này có mặt trong gia đình trước lúc tôi chào đời. Sở dĩ người ta gọi là đèn bão vì nó có khả năng chịu gió bão rất tốt.
Tình bạn

Tình bạn

(GLO)- Tôi có một ông bạn đã quá cố. Khi còn sống, cuộc sống gia đình ông không mấy hạnh phúc. Bù lại, ông có rất nhiều bạn.

“Như vị muối chung lòng biển mặn”

“Như vị muối chung lòng biển mặn”

(GLO)- Nhiều lần, tôi thử đứng trước những cánh đồng muối để tìm cho được vẻ đẹp lấp lánh trong những câu chuyện về đời muối. Những hạt muối đi vào đời sống, nếp nghĩ của bao người và chứa đựng cả một đại dương yêu thương.