Nhớ mãi món cua rừng Ia Lâu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Bây giờ, Ia Lâu đã là một vùng đất trù phú. Đường bê tông đã vào tận làng, tận xã. Dân cư đông đúc. Những rừng khộp ngút ngát khi xưa đã thành đồng lúa 2 vụ rộng thênh thang hàng trăm héc ta thẳng cánh cò bay. Đời sống tốt hơn, vui hơn, thông thương hơn. Và tôi, nhiều khi cứ mãi bâng khuâng, vẫn nhớ về món cua rừng khộp một thời khốn khó ngày xưa!
Những năm 80 của thế kỷ trước, vì bị phân cách bởi rừng và suối nên xã Ia Lâu (huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai) hoàn toàn bị cô lập trong mùa mưa. Muốn vào Ia Lâu trong những ngày mưa năm ấy, phải đi bằng máy cày bánh lớn từ huyện vào đến Plei Me, rồi đi bộ qua rừng khộp khoảng ba chục cây số, qua suối Nước Trong, suối Nước Đục đầy cơ cực.
Suối Nước Đục mùa mưa nước về rất lớn. Để qua được suối, người dân phải thường xuyên mở đường hàng năm, chọn những cây cổ thụ bên bờ suối, chặt hạ cho gãy bắc ngang qua lòng suối làm một chiếc cầu "độc mộc" độc đáo, chủ yếu dùng cho người đi bộ.
Chiếc cầu như vậy tồn tại được vài mùa mưa. Khi gặp nước lớn bị trôi, người dân lại làm chiếc cầu khác, ở vị trí khác. Những năm sau này, Phòng Thương nghiệp huyện phải tăng cường cho con voi để đưa dân qua suối dịp mưa lớn.
Mùa mưa năm ấy, bọn FULRO từ rừng Campuchia tràn về. Xã bị cô lập, thành mảnh đất hoạt động của FULRO. Cả 6 tháng mùa mưa, hầu như không có sự liên hệ nào từ xã Ia Lâu với toàn bộ xã hội bên ngoài. Giao thông trắc trở, mọi thứ coi như tự cấp, tự túc. Cuộc sống cần nhất là cơm gạo, cái ăn thì rừng đã cho sẵn. Bọn FULRO bắt bớ thanh niên, thu lúa gạo của dân để nuôi quân. Thời điểm manh động nhất, bọn chúng đã bắn hạ 2 người lính Biên phòng đi điều trị bệnh trên đường trở về đơn vị. Sau sự cố ấy, Ia Lâu thành “điểm nóng” của tỉnh.
Vừa ra trường được vài năm, là Phó Trưởng phòng của một ban ở tỉnh, tôi được phân công làm trưởng đoàn tăng cường cơ sở Ia Lâu. Đoàn cán bộ tăng cường của chúng tôi ngày ấy ở ngay trong nhà dân, phần ăn uống, sinh hoạt thì tự túc.
So với ở tỉnh, đi cơ sở ngày ấy về đời sống vật chất quá dồi dào no đủ. Gạo thì gùi ở tỉnh về. Rau thì hái lượm ở bãi từ rừng, chủ yếu là măng le, nấm mối, rau bí... Muốn ăn thịt gà thì chúng tôi đổi quần áo, thuốc lá cho bà con địa phương. Nhưng cái ăn chủ đạo của chúng tôi lúc ấy là cá suối và cua rừng. Cá suối nhiều nhưng đánh bắt cũng khá công phu.
Ảnh minh họa: Internet
Ảnh minh họa: Internet
Thú nhẹ nhàng và hấp dẫn nhất là bắt cua rừng. Buổi trưa nắng, đi trong những khu rừng khộp lại càng cảm nhận được sự rộng dài, khoáng đạt của không gian. Những cây gỗ dầu cổ thụ cao vút đầy sức sống vươn mãi lên trời xanh. Lá cây gỗ dầu trong rừng khộp to như hai bàn tay chập lại, là loại lá vẫn được đồng bào dùng để đựng thức ăn trong các lễ hội, từ thịt, cá đến a nhăm te-một loại súp gạo và lá mì sền sệt như cháo đặc.
Vì vậy, rừng khộp rất gần gũi với người Tây Nguyên. Trên những thân cây ấy đung đưa những giò phong lan đủ màu sắc, phảng phất hương thơm. Những con chim chợt đậu chợt bay, véo von giữa lùm xanh. Bãi rừng khộp cứ thấp dần, thấp dần về phía biên giới. Dưới những tán cây cổ thụ cao sừng sững là triền đất cát ẩm ướt bằng phẳng, chỉ có cỏ và đôi bụi le lưa thưa.
Mùa mưa mặt đất sũng nước. Nước tạo thành những khe nhỏ rỉ rả tràn lên trên mặt rừng khộp. Trong rừng khộp vì vậy có đủ ếch nhái và cua. Bất ngờ hiện ra một khoảng trống, đó là vùng trũng hợp thủy giữa mênh mông rừng phẳng lì tít tắp. Cái vùng trũng ấy là bãi đất cát pha, đồng bào Jrai cuốc lên trồng lúa. Lúa đang thì con gái. Nước lấp xấp. Cua ở đâu từ trong rừng khộp bò hết cả về đám lúa lơ phơ.
Chúng tôi xách cái thùng tôn gánh nước đi tầm tiếng đồng hồ đã được cả thùng cua. Cua bò lổm ngổm khắp mặt ruộng. Những con cua rừng to kềnh càng, mọc rêu mốc hỉn. Đó có lẽ cũng là một loại cua đồng sống ở rừng, nhưng qua bao nhiêu năm không ai bắt thì nhiều lên, già khú xù xì và to lớn quá cỡ. Không biết có phải lúc đói ăn gì cũng ngon hay không, cua rừng thành món đặc sản thú vị của đoàn công tác chúng tôi trong một thời gian khá dài.
Sau này, đọc tiểu thuyết “Cao lương đỏ” của nhà văn Mạc Ngôn, tôi vẫn ấn tượng với đoạn tác giả miêu tả cua di trú, chúng bò nghênh ngang dày đặc mặt đất. Xe cán bẹp dí xác đầy đường, cua vẫn đi. Dân cư bắt cua ăn tươi không hết thì chế biến mắm cua. Nghĩa là cua tràn qua vùng đất ấy như châu chấu sa mạc! Có lẽ Ia Lâu thời hoang sơ, môi trường tốt, dân không thấy ai ăn cua, chúng cứ thế nhiều lên một cách lạ lùng.
Bây giờ, Ia Lâu đã là một vùng đất trù phú. Đường bê tông đã vào tận làng, tận xã. Dân cư đông đúc. Những rừng khộp ngút ngát khi xưa đã thành đồng lúa 2 vụ rộng thênh thang hàng trăm héc ta thẳng cánh cò bay. Đời sống tốt hơn, vui hơn, thông thương hơn. Và tôi, nhiều khi cứ mãi bâng khuâng, vẫn nhớ về món cua rừng khộp một thời khốn khó ngày xưa!
PHẠM ĐỨC LONG

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.