Nguồn gốc văn tự trên phù điêu Phật Champa Tây Nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ 2 hiện vật và nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia gồm: bức phù điêu Phật Champa bằng sa thạch có nguồn gốc từ huyện Krông Pa và bộ công cụ đá thuộc sơ kỳ Đá cũ từ thị xã An Khê.

Trong quá trình tìm hiểu về nguồn gốc văn tự được khắc phía sau bức phù điêu này, chúng tôi ghi nhận được một số thông tin khá thú vị.

Bức phù điêu Phật Champa được phát hiện từ năm 1978 và được công nhận là bảo vật quốc gia năm 2017. Hiện bức phù điêu bản gốc được trưng bày trong một ô riêng kèm ảnh bản dập nguyên văn phần chữ viết cổ sau lưng bức phù điêu và bảng in phần phiên âm, dịch nghĩa. Bảng chú thích cung cấp những thông tin cơ bản về bảo vật được viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh.

Toàn văn phần tiếng Việt: “Phù điêu Phật Champa Tây Nguyên. Bảo vật quốc gia. Hiện vật thuộc văn hóa Champa. Niên đại: Khoảng thế kỷ VI-VII. Được phát hiện tại huyện Krông Pa và đưa về Bảo tàng tỉnh Gia Lai năm 1988”.

Phù điêu Phật Champa Tây Nguyên trưng bày tại Bảo tàng tỉnh. Ảnh: L.H.S

Phù điêu Phật Champa Tây Nguyên trưng bày tại Bảo tàng tỉnh. Ảnh: L.H.S

Lý lịch hiện vật lưu trữ cho biết thêm một số thông tin về xuất xứ, trọng lượng, đặc điểm của bức phù điêu, trong đó có phần phiên âm và dịch nghĩa các văn tự được khắc mặt sau bức phù điêu. Tuy nhiên, bảng chú thích cũng như lý lịch hiện vật và phần thuyết minh tại Bảo tàng tỉnh không cho biết thông tin về nguồn gốc, xuất xứ của các văn tự ấy.

Dựa trên bản phiên âm tiếng Pali tại tủ trưng bày, chúng tôi tìm nguồn gốc của các văn tự này. Kết quả cho thấy, đây là một bài kệ nổi tiếng của Phật giáo, được ghi chép lại trong nhiều thư tịch. Nhân đây, chúng tôi giới thiệu nguồn gốc và cung cấp thêm một bản dịch lại phần văn tự này, dựa trên sự hiểu biết của mình thông qua việc tham chiếu các tài liệu liên quan, hy vọng cung cấp thêm thông tin cho những ai quan tâm đến bảo vật quốc gia phù điêu Phật Champa Tây Nguyên.

Các dòng văn tự được khắc phía sau bức phù điêu Phật Champa Tây Nguyên đang trưng bày tại Bảo tàng tỉnh thực ra chính là bài kệ nói về nhân duyên do tu sĩ Asvajit (A Thuyết Thị) đọc cho tu sĩ Sariputra (Xá Lợi Phất) nghe khi 2 người gặp nhau trên đường tu học. A Thuyết Thị là một trong số ít đệ tử thời kỳ đầu được nghe Đức Phật giảng về thuyết nhân duyên.

Khi một đệ tử thế hệ sau của Phật là Xá Lợi Phất (tên khác là Xá Lợi Tử) trên đường cầu học, gặp hỏi thì được A Thuyết Thị đọc cho nghe mấy câu này. Ông sống cùng thời với Đức Phật, vào khoảng cuối thế kỷ VII-đầu thế kỷ VI trước Công nguyên, xuất thân từ gia đình quý tộc Bà La Môn, nổi tiếng là bậc tiên tri.

Ban đầu, A Thuyết Thị được vua Tịnh Phạn giao nhiệm vụ đưa thái tử Tất Đạt Đa (sau khi đắc đạo gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni) lên ngôi, nhưng cuối cùng lại theo thái tử xuất gia tu khổ hạnh và trở thành 1 trong 5 đệ tử đầu tiên của Phật được nghe giảng pháp tại vườn Lộc Dã. Trong tăng đoàn, A Thuyết Thị nổi tiếng là người trang nghiêm, từng làm thị giả (người hầu cận, trợ giảng) cho Đức Phật.

Còn Xá Lợi Phất là đại đệ tử của Đức Phật, nổi tiếng về trí tuệ xuất chúng, có tài biện luận, thường được Đức Phật cho giảng pháp thay. Ông lớn tuổi hơn Đức Phật, thuộc dòng dõi Bà La Môn, nhà ở gần thành Vương Xá-nơi đầu tiên Đức Phật dừng lại trên hành trình cầu đạo, cha của ông là một bậc thầy về giáo lý của đạo Bà La Môn.

Trên đường cầu học, ông đã gặp A Thuyết Thị và được khai ngộ, chỉ dẫn tìm đến Đức Phật, trở thành vị tôn giả nổi tiếng của Phật giáo, giữ vai trò thị giả trợ giảng cho Đức Phật trong suốt 20 năm, giải quyết nhiều vấn đề phức tạp trong tăng đoàn.

Câu chuyện 2 vị tu sĩ gặp nhau và sự ra đời của bài kệ Duyên khởi (Ye dharmā) được ghi chép trong nhiều kinh sách của Phật giáo. Nguyên văn bài kệ được dịch ra Hán văn, phiên âm như sau: “Chư pháp tòng nhân sinh/Chư pháp tòng nhân diệt/Như thị diệt dữ sinh/Sa môn thuyết như thị”, nghĩa là: Các pháp đều theo nhân mà sinh ra và theo nhân mà mất đi; việc mất và sinh ấy, Phật là người đã hiểu và nói rõ.

Sau khi ra đời, Duyên khởi dần trở thành một trong những bài kệ nổi tiếng và phổ biến nhất của Phật giáo. Không những nó được ghi chép truyền tụng trong nhiều kinh sách, mà còn được khắc lại trên vàng, đá, đất nung trong kiến trúc và nghi lễ tôn giáo tại nhiều quốc gia.

Riêng tại Việt Nam, ngoài được khắc phía sau của phù điêu Phật Champa Tây Nguyên tại Bảo tàng tỉnh, còn thấy khắc trên miếng vàng lớn nhất mới phát hiện trong kho thiêng giữa lòng tháp Champa An Phú được khai quật gần đây, với sự đoán định bước đầu của 2 chuyên gia nghiên cứu Champa được Bảo tàng tỉnh mời tham gia khai quật di tích là nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương (nguyên cán bộ Bảo tàng điêu khắc Chăm, Đà Nẵng) và Tiến sĩ Nguyễn Quốc Mạnh (Trung tâm Khảo cổ học, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, TP. Hồ Chí Minh). Phát hiện này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định niên đại cũng như hoạt động tín ngưỡng của người Chăm tại Gia Lai từ nhiều thế kỷ trước.

Tiến sĩ Nguyễn Quốc Mạnh cho biết thêm: Bài kệ Duyên khởi cũng được khắc trên một mảnh vàng tìm thấy tại di chỉ tháp Gò Xoài, tỉnh Long An. Tại Phú Yên, nhiều phiến đất nung mặt trước tạo hình Đức Phật, mặt sau khắc các dòng chữ Phạn được phát hiện, ví dụ chùa Hồ Sơn và Hòn Miếu ở thị xã Tuy Hòa (trích từ thống kê của Tiến sĩ Lê Đình Phụng trong bài “Phật giáo Chămpa qua tư liệu khảo cổ học”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 2-2003).

Kiểu thức này rất giống với tấm bia bằng đất nung tạo hình Đức Phật ngồi mặt trước và bài kệ Duyên khởi viết phía sau được phát hiện tại làng Phước Tịnh (Phú Yên) được phát hiện cách đây hơn trăm năm theo ghi nhận thông tin của nhà nghiên cứu Champa người Pháp là Henri Parmentier (trong bài “Inventaire descriptif des monuments cams de l’Annam” (Kiểm kê mô tả di tích Chăm của Việt Nam, tài liệu tiếng Anh do nhà nghiên cứu Trần Kỳ Phương cung cấp). Từ thông tin này của Parmentier, chúng ta có thể đoán định văn tự sau các phiến đất nung do Tiến sĩ Lê Đình Phụng miêu tả ở trên cũng là bài kệ Duyên khởi.

Như vậy, có thể thấy, có sự tương đồng khá lớn trong tín ngưỡng Phật giáo của người Chăm ở một số nơi tại miền Trung và miền Nam với tín ngưỡng Phật giáo của người Chăm ở Gia Lai. Điều đó cũng có nghĩa rằng, văn hóa của người Champa đã hiện diện tại Gia Lai từ hàng ngàn năm trước và đó không phải là hiện tượng cá biệt, mà có tính thống nhất khá cao trong tín ngưỡng Phật giáo của người Chăm xưa.

Có thể bạn quan tâm

Minh họa: HUYỀN TRANG

Bài học đầu tiên

(GLO)- Buổi sáng hôm ấy, mẹ nắm tay đưa tôi đến trường lần đầu tiên. Ngôi trường làng nhỏ bé, nằm giữa những tán cây xanh rợp bóng mát. Không gian thoang thoảng mùi thơm của những đóa hoa bên đường.

Tiết mục hát dân ca của em Đinh Doanh và đoàn nghệ nhân xã Pờ Tó trong chương trình “Cồng chiêng cuối tuần-Thưởng thức và trải nghiệm” tại huyện Ia Pa. Ảnh: V.C

Cồng chiêng cuối tuần trở lại Ia Pa

(GLO)- Tối 17-11, chương trình “Cồng chiêng cuối tuần-Thưởng thức và trải nghiệm” tiếp tục được tổ chức tại huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai. Chương trình mang đến nhiều tiết mục đặc sắc làm nức lòng người dân và du khách.

Khơi dậy ý thức bảo tồn văn hóa dân tộc cho thiếu nhi Gia Lai

Khơi dậy ý thức bảo tồn văn hóa dân tộc cho thiếu nhi Gia Lai

(GLO)- Để học sinh thể hiện sự hiểu biết về văn hóa dân tộc, tổ chức Đoàn-Đội các cấp của tỉnh Gia Lai triển khai hoạt động vẽ tranh, trình diễn trang phục truyền thống…Các hoạt động góp phần khơi dậy ý thức bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

Các em học sinh trải nghiệm đan gùi với nghệ nhân làng Ngơm Thung, xã Ia Pết, huyện Đak Đoa. Ảnh: L.N

Sức sống di sản

(GLO)- Tham gia một sự kiện quy mô song các nghệ nhân gần như không trình diễn mà như đang trong buổi sinh hoạt văn hóa vẫn thường diễn ra tại buôn làng; khách tham quan cũng được hòa mình vào những trải nghiệm không thể thú vị hơn tại Ngày hội Di sản văn hóa năm 2024.

Dặm dài năm tháng

Dặm dài năm tháng

(GLO)- Tôi ngang qua trường cũ trong một ngày vòm trời xám đục trong bàng bạc hơi sương. Cảnh vật đã không còn như xưa nữa. Chỉ có cây bàng nơi góc sân trường run run giơ những chiếc lá ối đỏ phơ phất vẫy trong gió lạnh.

Chuyện một “công trình sư” Bahnar

Chuyện một “công trình sư” Bahnar

(GLO)- Sau khi hoàn tất việc cắt lúa, ông Chánh thư thái ngồi trò chuyện cùng chúng tôi bên ghè rượu. Phẩm chất nghệ sĩ của người nông dân với tư cách “công trình sư” một loạt công trình, mô hình ghi dấu bản sắc văn hóa tại Quảng trường Đại Đoàn Kết (TP. Pleiku) hiện diện trước mặt chúng tôi.

Ký ức của ba

Ký ức của ba

Bảng khám bệnh điện tử hiển thị con số 106, tôi ngó quanh quất tìm ba tôi. Ông già lại đi lung tung đâu đó. Tôi hớt hải chạy quanh sảnh bệnh viện: “Kia rồi”, chiếc áo kaki màu xanh bộ đội.

Thơ Hà Hoài Phương: Những ngôi sao xanh

Thơ Hà Hoài Phương: Những ngôi sao xanh

(GLO)- Hình ảnh "những ngôi sao xanh" trong thơ Hà Hoài Phương tượng trưng cho ánh sáng hy vọng không bao giờ tắt, dẫu rằng có bao nhiêu khó khăn, thử thách hay bóng tối bao phủ. Những ngôi sao ấy là niềm tin, sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua mọi gian truân cuộc sống...

Những món đồ cũ

Những món đồ cũ

(GLO)- Mỗi lần sắp xếp lại đồ đạc trong nhà, tôi thường tần ngần ngắm nhìn những món đồ cũ. Những đồ vật vốn vô tri, nhưng khi gắn với cuộc sống con người thì chúng trở nên có hồn và có thể gợi lại những câu chuyện, kỷ niệm khó quên.

Mùa nấm mối

Mùa nấm mối

(GLO)- Đã 3 mùa mưa qua, khu vườn nhà tôi đều xuất hiện nấm mối. Những búp nấm nhú lên mặt lá ủ sau một thời gian dài ủ meo mầm, khi gặp cơn mưa đầu mùa rồi nắng lên vài hôm, có cơn mưa tiếp theo là những tai nấm mối thân trắng, núm đầu dù màu xám đội lên từng khóm.

Dã quỳ trong sương đêm

Dã quỳ trong sương đêm

(GLO)- Dã quỳ là biểu tượng của sức sống mãnh liệt, kiêu hãnh. Khi gợi nhắc sắc hoa màu nhớ, người ta thường nghĩ đến màu vàng rực rỡ trong nắng ban mai, trong buổi bình minh hé giấc hay rực ấm lúc chiều tà.

Hình dung

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Hình dung

(GLO)- Bài thơ "Hình dung" của Nguyễn Ngọc Hưng là một tác phẩm đẹp, đậm chất mộng mơ và lãng mạn. Nó thể hiện một tình yêu vĩnh cửu, dường như không thể chạm vào, nhưng vẫn mãnh liệt và đầy khắc khoải...

Thương hoài bếp lửa

Thương hoài bếp lửa

(GLO)- Ở quê, mẹ tôi vẫn dùng bếp củi. Mỗi lần về quê, tôi rất thích ngồi bên bếp lửa ấy, thi thoảng lại dụi đầu vào vai mẹ. Ngọn lửa tí tách reo vui gọi về trong tôi biết bao kỷ niệm ấu thơ.

Thân Thương loài hoa của núi - Dã quỳ

Thân thương loài hoa của núi

(GLO)- Khi những cơn mưa cuối mùa khép lại báo hiệu mùa khô Tây Nguyên đã đến, những dải hoa dã quỳ (còn có tên cúc quỳ, sơn quỳ, quỳ dại,…) bắt đầu vươn mình khoe sắc. Những đóa hoa dã quỳ nhỏ bé, tràn đầy năng lượng và sức sống, tạo nên những dải sóng đồi vàng rực, mê hoặc lòng người.