Ký ức làng

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Trận bão, lụt kinh hoàng đi qua như một cuộc chiến không mùi thuốc súng. Có một nhóm người háo hức vác rìu, vác rựa đẵn gỗ để cất lẫm làng.

1. Già Tâm kể rằng: năm Giáp Tý trời mưa gió ào ạt suốt năm ngày đêm, nước dâng ngập đầu ngọn tre. Gió lồng lộn hà hơi tiếp sức với mưa quật đổ những ngôi nhà vách trát đất ở xóm Đồng cướp đi tài sản và tính mạng của một số gia đình, gây nên cảnh tang thương nhiều năm sau vẫn chưa khắc phục hoàn toàn.

Trận bão, lụt kinh hoàng đi qua như một cuộc chiến không mùi thuốc súng. Có một nhóm người háo hức vác rìu, vác rựa đẵn gỗ để cất lẫm làng. Những khúc gỗ tròn, dài, đen trùi trũi màu nước bùn như cái bồ cót từ trên núi cao được thủy thần nổi cơn giông gió, bão lụt để đưa về biển xây dựng thủy cung. Gỗ nhiều, các đấng thần linh lấy đi không hết nên để lại dăm ba khúc nằm chình ình trên bờ sông, thửa ruộng. Mỗi khi trời sang đông, mưa to gió lớn nhiều ngày liền thì người xóm Đồng nghĩ là “ông bà đi lấy gỗ”. Gỗ của ông bà linh thiêng lắm nên chẳng ai dám cưa xẻ đem về làm nhà, dựng chuồng nuôi gia súc hoặc làm chất đốt. Dân xóm Đồng mất mát trong bão lũ lại có niềm tin ông bà cho gỗ xóm Đồng là điều may mắn. Mọi người, mọi nhà sẽ ăn nên làm ra. Niềm vui được nhen lên an ủi người dân phần nào.

Ông Bảy Tựa vâng lời xã Hai Ngung chỉ huy đám thợ mộc dùng trâu bò kéo những khúc gỗ to tướng về đất của làng để cất lẫm làm nơi thờ cúng các vị tiền hiền của làng. Ngày dựng đòn dông, xã Hai Ngung mặc áo the thâm, đầu chít khăn đỏ quỳ mọp xuống đất khấn vái một hồi. Ông thầy lễ bưng cái khay gỗ đặt sẵn hai đồng xu màu đồng hung. Xã Hai Ngung vung tay gieo hai đồng xu xuống khay. Hai đồng xu quay lục cục một hồi rồi mới chịu nằm im. Mắt lão sáng lên. Hướng về bàn nhang đèn hoa quả cúi đầu lạy ba lạy rồi quay sang thầy lễ, nói nhỏ: “Tiền hiền hiển linh đồng ý cho dựng lẫm làng ngay lần gieo quẻ đầu tiên. Thật là đại phúc!”. Dân xóm Đồng nghèo lại giàu tín ngưỡng thờ cúng.

Việc huy động xây dựng lẫm làng chóng vánh trong vòng sáu tháng. Thầy lễ tên là Tưng, thứ sáu, mọi người quen gọi là thầy Sáu. Thầy Sáu Tưng được xã Hai Ngung cắt cử giữ lẫm làng nhà ba gian vững chãi. Đêm đầu tiên, thầy Sáu Tưng thắp nhang trên bàn thờ, chong đèn hột vịt, ngủ sớm. Nửa đêm trong cơn mê ngủ, lão nghe tiếng kèn tò te tí te. Nhà lẫm sáng trưng. Lão nằm nghiêng co quắp hai chân, rụt cổ, hai bàn tay ôm đầu không dám thở mạnh. Trong chốc lát không còn tiếng kèn và nguồn sáng phụt tắt. Thầy Sáu Tưng tức tốc tìm xã Hai Ngung kể rõ nguồn cơn trong đêm và xin thôi việc trông coi lẫm làng. Xã Hai Ngung giãy nảy như giậm phải gai tre: “Các vị tiền hiền của làng về lẫm đó. Giống như Thành Hoàng về miễu vậy. Đừng sợ! Thần thánh nào lại nỡ làm hại người lo việc nhang khói cho mình cơ chứ!”.

2. Khác với các xã trưởng thời Pháp thuộc thường có nhiều vợ lẽ, xã Hai Ngung chỉ một vợ một chồng. Lão làm xã trưởng từ năm mới hơn 30 tuổi, dáng người cao ráo, trắng trẻo, giỏi võ, rành chữ Nho và còn biết nói bập bõm tiếng Pháp. Nhà xã Hai Ngung cách lẫm làng chưa đến một trăm mét. Lẫm Tân Lâm được chia làm ba gian. Gian thứ nhất dành để thờ cúng các vị tiền hiền. Gian thứ hai dành cho xã Hai Ngung và ngũ hương (hương duyệt, hương dịch, hương kiểm, hương bộ, hương mục) làm việc. Gian thứ ba là kho lúa do dân nộp thuế hàng năm. Có những ngày xã Hai Ngung tạt về nhà ăn cơm xong đến lẫm bảo thầy Sáu Tưng pha trà ngồi nhấm nháp.

Xã Hai Ngung có thói quen lúc nào cũng giữ khư khư bên mình khẩu súng Colt M-1911 nòng súng cỡ 45mm (Colt 45) do Mỹ sản xuất. Người Pháp chiếm thuộc địa ở châu Phi, Đông Dương, đi xâm lược gây đau thương cho dân tộc khác nhưng lại cố quên vì đâu mà những người yêu nước Việt Nam tìm đến với chủ nghĩa cộng sản. Một bữa, xã Hai Ngung ngẫu hứng rút khẩu súng lục đặt trên bàn. Thầy Sáu Tưng nổi tánh hiếu kỳ mon men đến gần: “Súng ngộ quá ông nhỉ! Đây là lần đầu tiên con nhìn thấy đó!”. Xã Hai Ngung đẩy ly nước trà sang một bên, cầm khẩu súng ngắn lên bấm nút lấy băng đạn ra. Thầy Sáu Tưng ồ lên một tiếng thích thú khi nhìn thấy đầu đạn bằng ngón tay út màu đồng hung trong lớp vỏ màu vàng chóe. Xã Hai Ngung đắc ý, mặt lão câng câng vụt đứng dậy: “Thầy sáu muốn xem tôi bắn súng không? Ra đây xem nè!”. Sáu Tưng do dự mấy giây chưa muốn bước vội. Có lẽ lão sợ nghe tiếng súng nổ.

Sáu Tưng vừa ra khỏi cửa đã nghe tiếng đạn lên nòng, Xã Hai Ngung hô: “Này! Thầy Sáu! Coi tôi bắn vào giữa chảng ba cây thầu đâu!”. Lão nói dứt lời, từ từ đưa khẩu súng lên nhắm. Đoàng! Đoàng! Đoàng! Ba tiếng súng nổ chát chúa, đanh gọn. Xã Hai Ngung khoái chí: “Trúng được hai phát là thiện xạ rồi!”. Sáu Tưng nhanh chân tiến về phía cây sầu đông, mắt nhìn thom lom: “Ông bắn giỏi thật đó!”. Những người nhà ở gần lẫm Tân Lâm đổ xô ra đường nhìn dáo dác, sợ hãi. Xã Hai Ngung thì cầm khẩu súng ngắn trên tay mãn nguyện. Thầy Sáu Tưng lui cui tìm nhặt mấy cái vỏ đạn đồng.

3. Chuyện ban đêm thánh thần hiện về lẫm làng rồi cũng đến tai của người dân lẫm Tân Lâm với nhiều cách thêu dệt, dị bản khác nhau. Càng về sau, câu chuyện càng nhuốm màu kinh dị khiến cho lũ trẻ con ban đêm mỗi khi đi qua lẫm làng sởn tóc gáy. Cũng từ sự đồn thổi, đơm đặt ấy mà nhiều năm sau không ai dám thay thầy Sáu Tưng trông coi lẫm làng. Thầy Sáu Tưng trở thành người thâm niên giữ lẫm kiếm cơm vô thời hạn. Thế rồi vào một đêm, xã Hai Ngung đi dự tiệc nhà hương kiểm mà không về nhà mình. Lão buộc con bạch mã trước sân, vào lẫm ngủ. Hôm sau, Sáu Tưng dậy sớm nấu nước pha trà phát hiện ông hội đồng nằm chết cứng trên bộ ván gõ đặt gần chỗ mà hàng ngày ông ngồi làm việc. Sáu Tưng run bắn người, bấn loạn. Lão chạy ra ngoài kêu la ầm ĩ. Suốt ngày hôm ấy lúc nào lẫm Tân Lâm cũng lố nhố người bàn tán xì xào. Thầy Sáu Tưng bị cơ quan chức trách tra hỏi nhiều lần, song cái chết của xã Hai Ngung vẫn là một ẩn số. Dân chúng tha hồ bàn tý bàn ngọ đủ chuyện. Một số hào cựu của làng phán xanh rờn: “Xã Hai Ngung cả gan lấy gỗ của thủy thần về xây dựng lẫm làng bị kẻ khuất mặt quở phạt, bắt hồn”; “Nơi tôn thần yên nghỉ mà xã Hai Ngung dám lấy súng nã đạn đì đoàng nên bị bắt chết”… Tựu trung lại lão chết vì thánh thần vặt cổ...

Lần này Sáu Tưng không còn chịu đấm ăn xôi. Lão khăng khăng xin nghỉ việc trông coi lẫm làng. Lão sợ xã Hai Ngung hiện hồn dọa dẫm. Xã trưởng mới chấp chánh bí đường phải cắt cử hương kiểm Đành giữ gìn lẫm làng.

Lẫm Tân Lâm bị máy bay Mỹ dội bom tan hoang. Sau năm 1975, chính quyền địa phương xây dựng lại lẫm mới trên nền đất cũ. Hàng năm, người dân góp tiền cúng tế lẫm làng. Sau lễ chào cờ, chúc tết đầu xuân, những người con của Tân Lâm không quên vào lẫm thắp nhang khấn vái các bậc tiền hiền - những người buổi ban đầu đã có nhiều công lao khai khẩn đất hoang xây dựng nên làng xóm để có được cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc như hôm nay.

Chuyện của xã Hai, thầy Sáu là những giai thoại làng được người lớn kể cho con cháu nghe với suy luận mới hấp dẫn hơn…

Có thể bạn quan tâm

Chênh chao mùa về

Chênh chao mùa về

(GLO)- Những ngày này, mưa dường như đã ngừng rơi. Khoảng mênh mông bao la chờn vờn mây trắng bỗng trở thành phông nền cho bức tranh thiên nhiên vời vợi nắng. Gió cũng đã thao thiết trở mùa.

Chiếc áo ấm cũ

Chiếc áo ấm cũ

Mấy ngày nay trời trở lạnh. Mẹ lúi húi dọn tủ đồ, rồi lấy ra chiếc áo len đã cũ, phần ống tay đen nhẻm, lại còn bị bung chỉ một đoạn. Thay vì bỏ đi, mẹ vuốt ve rồi lấy kim chỉ ra khâu khâu vá vá.

Về trong tiếng gió

Về trong tiếng gió

(GLO)- Nhiều khi, tôi thấy gió thổi trống không phía sau lưng mình. Thời gian vừa thoáng như chồi biếc đã thấy lá vàng, chẳng để lại gì nhiều nhưng đủ gợi những vời vợi nhớ thương trong cuộc đời.

Vệt phố

Vệt phố

(GLO)- Nương náu phố núi hơn 40 năm ròng nhưng hình như tôi chưa kịp hiểu hết những ngõ ngách thẳm sâu trong lòng phố.

Ảnh minh hoạ. Nguồn: Internet

Thương những tàn phai

(GLO)- Giao mùa, khi làn gió mang hơi lạnh ào qua, những chiếc lá khô bứt khỏi cành rơi lả tả. Một chiếc lá rơi, một cánh hoa tàn, một buổi chiều nhạt nắng tạo nên khung cảnh tịch liêu với vẻ đẹp rất riêng. Có người bảo đó là cái đẹp của sự tàn phai.

Minh họa: HUYỀN TRANG

Bữa cơm ngoài đồng

(GLO)- Tôi sinh ra từ làng, lớn lên cùng cánh đồng mỗi năm 2 vụ chính. Thuở ấu thơ, tôi và cánh đồng cùng đi qua những mùa mưa nắng, cùng đằm vị mồ hôi chát mặn của cha mẹ và niềm vui lan tỏa của những bữa cơm ngoài đồng.

“Có nỗi nhớ không mang tên”

“Có nỗi nhớ không mang tên”

(GLO)- Chiếc xe khách lướt êm trên quốc lộ 14 uốn lượn theo những hàng thông. Mặt trời đã ở phía sau lưng, hoàng hôn lộng lẫy dát vàng lên những tàng cây cao vút. Khi bước chân tôi chạm vào vùng đất đỏ bazan thì sương mù cũng vừa bảng lảng.

Cá đồng mùa lụt

Cá đồng mùa lụt

(GLO)- Ở quê tôi, gia đình nào cũng có những bộ đồ nghề đánh bắt cá, chủ yếu là tự làm bằng tre nứa như: nơm, đó, lờ, ống lươn, rớ, đăng, cần câu, chà (chà di)… Ngay từ nhỏ, tôi đã được cha và chú dạy cách đan một số dụng cụ đánh bắt cá nước ngọt.

“Mưa trên biển vắng”

Mưa trên biển vắng

(GLO)- Tôi biết mình mãi là người của núi, nhưng thi thoảng trong giấc mơ mùa hạ, tôi lại nghe tiếng sóng vỗ nhòa vào mỏm đá xa xưa. Như thể tự kiếp nào, tôi đã bỏ quên ở biển thứ gì đó thẫm xanh, để bây giờ, không thể khác hơn, tôi luôn bị xâm chiếm bởi một nỗi nhớ biển.
Như cau trước bão

Như cau trước bão

(GLO)- Lúc gia đình tôi chuyển về nơi ở mới, ngay trước cửa đã có hàng cau thẳng tắp. Cây nối nhau, cao tầm hơn chục mét, như chiếc lược lớn chải vào mây trời.

Trăng ngọc ngà

Trăng ngọc ngà

Non đêm, mấy người đàn ông trung niên trong xóm tụ lại trước sân nhà Minh, chơi cờ giết thời gian, ca hát góp vài tiếng lao xao chờ đón trăng lên. Trong đám người lao xao đó có vợ chồng Thụy.
Mây ngũ sắc…

Mây ngũ sắc…

Bà ơi bà! Giá mà bà cháu mình được ngồi đung đưa trên vầng trăng lưỡi liềm kia thì vui phải biết. Hai bà cháu mình ngắm mây bay luồn qua những kẽ ngón chân. Thò tay xuống nhón mây chỗ này thả ra chỗ kia. Nặn lại mấy vầng mây hình thù xấu xí kia thành hình bông hoa, con cún.
Lời sóng vỗ

Lời sóng vỗ

(GLO)- Biển trong mắt người gắn mình với xứ núi hơn 40 năm luôn là một điều bí ẩn. Có lẽ vì thế nên những lần đắn đo lựa chọn điểm đến cho những kỳ nghỉ ngắn hoặc dài ngày, nơi có biển vẫn luôn là ưu tiên.
Nhớ những mùa vàng

Nhớ những mùa vàng

(GLO)- Những mùa lúa vàng trĩu bông thơm mùi rơm rạ là hình ảnh đã ăn sâu vào ký ức bao thế hệ người Việt, đặc biệt là những người lớn lên ở thôn quê.
Thơm thảo mùa thu

Thơm thảo mùa thu

(GLO)- Một buổi chiều thu, giữa người xe phố phường giăng mắc, tôi chợt thấy bên vỉa hè một chị hàng rong lặng lẽ bày ra những quả hồng. Những quả hồng chín ửng căng bóng, màu cam đỏ pha chút thẫm xanh dịu mắt được xếp vào chiếc mẹt tre.