Má càm ràm: “Nhà đủ thứ, thiếu chi đâu mà chở về lỉnh kỉnh cho mệt”. Vừa nói má vừa đưa tay bồng thằng cháu.
Chị lui cui gỡ mớ bao bị trên xe xuống. Nào rau sống, thịt heo, cá ngừ, đậu đũa, súp lơ… Chị bảo sẵn tiện ra chợ mua mớ rau, con cá về để ba má ăn dần, khỏi phải đi đón mua từng chút cho mệt.
Má lại nói nhà có thiếu chi đâu, rau cỏ đầy vườn đầy rẫy, mua chi tốn tiền. Với lại, rau trái ngoài chợ bị nhiễm thuốc bảo vệ thực vật. Má nói cũng phải. Nhà quê có thể thiếu nhiều thứ chứ rau dại thì rất hào phóng.

Nhớ những ngày trồng đậu, trồng khoai dưới vạt đất bãi bồi ven sông. Đất xa, đi phải lội qua lội về 2-3 lần sông, leo mấy lần dốc mới tới nơi làm. Tối tối, má đã phải soạn lỉnh kỉnh những thứ đem theo để ở lại, nào gạo, mắm muối, nào nồi, niêu… Còn ba thì gùi theo tay lưới con con.
Già buổi trưa, khi cái nắng miền Trung như thiêu đốt mọi thứ, mọi người rời đồng quy tụ về phía bãi sông. Dọc sông, những cây vối cao to mấy người ôm không xuể, bóng mát vừa ôm lấy bãi đá ven bờ, vừa nhoài ra như che mát cho con sông.
Ba lựa khúc sông chảy bình để thả lưới. Tấm lưới nhỏ rắc ngang sông, ba lội men theo bờ rồi phăng ngang gỡ cá. Những con cá mại trắng, cá lẹp, cá lòng tong, cá mương... mắc vào lưới quẫy vẩy sáng loáng. Vài lần giăng lưới thì ba thu lưới. Cái túi ni lông nhỏ đựng được lưng túi cá tươi.
Má kê 3 hòn đá nhóm bếp. Bên bờ sông, cái giếng nhỏ dã chiến được đào từ bao giờ. Nước sâu chừng độ 2 gang tay, trong vắt. Sau khi nồi cơm cạn nước, má gạt lửa vần sang bên bếp, đậy vung và không quên chần thêm hòn đá lên trên cho kín hơi. Cái nồi nhỏ móp méo má bắc lưng nồi nước. Ba ngồi làm ruột những con cá nhỏ bên sông.
Rồi má đội nón đi ngược sông. Những bụi rau dớn vươn những nhánh lá còn e ấp co vòi lại giống những vòi voi. Một đôi ngọn đã giơ những chiếc lá non be bé vẫy nắng. Má đưa tay bẻ sựt cọng rau nghe giòn tan. Một đôi bụi rau lốt mọc bên bờ cát. Đất bồi tươi tốt, lá lốt xòe to hơn bàn tay người, to hơn cả lá trầu của bà. Má đưa tay lựa ngắt lá dày non mượt. Một đôi bụi rau má e ấp nấp dưới phía bờ rào dọc triền sông. Bụi nào bụi nấy um tùm. Rồi rau mương, xuyến chi, rau mơ… Má ngửa cái nón cời dạo một vòng dọc bờ sông đã đựng lưng nón toàn rau là rau.
Má trở về thì ba đã mắc chiếc võng giữa những tán cây vối, mấy chú, mấy bác vừa đưa võng cót két vừa nói chuyện râm ran bên tiếng sông rì rầm.
Nồi nước sôi, má ngửa vung vớt mớ rau luộc ra mặt vung rồi cho mớ cá vào, sau cùng đến lượt các loại rau nấu canh. Bữa cơm trưa ở đồng được dọn trên bãi đá, có vài củ khoai lang, mớ cá sông kho nghệ vàng ươm và chủ đạo là nồi canh rau dại cùng mớ rau dại luộc.
Má nói về cái thời “đói ăn rau đau uống thuốc” nhưng có khi đau cũng chẳng có tiền mà mua thuốc uống, chỉ chữa bằng các loại thuốc Nam truyền tai nhau, hầu hết là từ rau dại. Với má, cây rau nào cũng là vị thuốc. Ngọn lạc tiên, ngọn muồng luộc ăn chữa mất ngủ; rau lốt, mã đề lợi tiểu; tía tô giải cảm, trị ho; rau má, rau dớn mát gan, chữa thận…
Người nhà quê như má mỗi người đều là một bác sĩ hẳn hoi. Không biết sự thể thế nào nhưng chúng tôi thuở ấy lớn lên với cơm khoai, cá đồng và rau dại, dang nắng chang chang những trưa đồng và tắm mưa bì bõm những chiều giông mát mà chẳng đứa nào sụt sùi sổ mũi, đau đầu…
Làm dưới bãi bồi má dạo dọc sông, làm trên rẫy má dạo các triền suối, triền rẫy, vào rừng… Cũng là rau má, bắp chuối rừng, rau trai, mớ rau ranh, lá bứa, rau tàu bay… Mùa nào thức nấy, vùng nào rau ấy, không chỉ những bữa cơm trên rẫy, dưới đồng mà dường như bữa cơm nào của tuổi thơ chúng tôi cũng không thiếu mớ rau dại. Cứ thế, chúng tôi lớn lên trên những quê mùa, trên những đôi tay tảo tần và trong sự yêu thương của quê nhà ban tặng.
Chị nói má khi nào cũng sợ, ăn rau ăn củ người ta bán mà độc chết thì ở phố người ta chết hết rồi. Má cười. Tôi biết lời má không hẳn thế. Thể nào ngày chị đi về phố, má cũng đùm túm nào trứng gà, rau ngót và cả mấy nải chuối chát, bí đỏ, mướp, bầu… rồi lẩm bẩm “Rứa chứ đỡ được mấy bữa chợ”.
Mọi thứ được má gói ghém cẩn trọng trong lớp bao lát và không quên dặn chị rằng, về tới nhà bỏ hết ra chứ để rau úa. Xe chị nổ máy, má sẽ đứng tần ngần ở cửa, nhìn xuống con ngõ theo dáng chị và cháu ngoại khuất dần.