Đôi đũa bếp

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Cái thời bữa cơm nấu bằng than, củi, rơm rạ… thì đôi đũa bếp không thể vắng mặt nơi gian bếp, trong mâm cơm gia đình.
Đôi đũa bếp dài hơn đũa ăn; kích cỡ cũng lớn hơn, phần đầu bè ra, mỏng dẹt, cân đối như mái chèo; phần gốc tròn đều, dài gấp đôi phần đầu đũa. Đũa bếp thường làm từ thân gốc tre già, nhờ bàn tay khéo léo của người nông dân qua nhiều công đoạn cưa cắt, tạo hình, vót nhẵn mà nên. Ở những nơi trồng nhiều dừa, người ta chế tác nhiều vật dụng gia đình thông dụng từ lõi thân cây đã hết chức năng cho quả, và đũa ăn, đũa bếp nằm trong số đó.
Định danh “đũa bếp” vì nó gắn liền với gian bếp truyền thống, rất được việc: Dùng đầu đũa đảo cơm khi vừa sôi, lúc cạn nước cho cơm chín đều, tơi xốp. Gốc đũa cời bớt than hồng, vùi nướng củ khoai, con cá. Dùng đôi đũa bếp bưng/nhấc nồi cơm, nồi cá từ bếp để lên chiếc rế. Vì vậy, đũa bếp phần đầu vàng óng màu tre già, đầu kia đen đúa, lặng lẽ hao mòn.
Tận dụng ánh sáng trời, bữa cơm gia đình ở nông thôn ngày trước thường được bày trên nền nhà, vuông sân trước. Thức ăn được đặt trong đĩa, trong tô nhưng cơm lại bê lên cả nồi, mặc định vị trí đầu mâm cơm. Ngồi đầu mâm, hai bên nồi cơm là cha, mẹ; mẹ thường dùng đôi đũa bếp xới cơm vào chén cho các con.
 Minh họa: Huyền Trang
Minh họa: Huyền Trang
Người phía Bắc không dùng đũa bếp mà có đũa cái/đũa cả. “Cái” hay “cả”, định danh dựa vào chức năng sử dụng, hình dáng, ngôi thứ trong bó đũa. Đôi đũa cả không khác đôi đũa ăn về hình dáng lẫn chất liệu làm ra, có điều nó to và dài gấp đôi. Đôi đũa cả chỉ có một trong bó đũa, như thể đứng vị trí đứng đầu, giữ vai trò cầm trịch.
Bây giờ, hầu như mọi gia đình từ thành thị đến nông thôn đều dùng nồi cơm điện. Gạo cho vào nồi, vo sạch, nước vừa đủ, cắm điện thì tự khắc có cơm, chẳng phải “cơm sôi bớt lửa” hay lo chuyện “trên sống, dưới khê, tứ bề nhão nhoét” nữa… Bây giờ, bếp gas, bếp từ trở nên phổ biến, chủ động nhiệt lượng, người nấu ăn không phải cời than, ủ nóng, giữ lửa thì cần gì đến đũa bếp, đũa cả vào những việc này. Cũng từ đó, củ khoai vùi, trái bắp nướng, con cá hun chẳng thể làm ra, kể cũng kém phần hấp dẫn so với tính năng gian bếp củi truyền thống! Thì đã có lò nướng. Kỳ thực, sản phẩm nhờ vào lò nướng trông bắt mắt nhưng khó sánh chất lượng, hương vị, bối cảnh không gian nơi gian bếp nghèo ám đầy mụi khói; quãng thời gian sự đói nghèo, túng khó đọng lại kỷ niệm khó quên.
Bây giờ, vào quán cơm niêu, cùng với niêu cơm đất nung phần cho mỗi người luôn có đôi đũa bếp nhỏ nhắn, xinh xinh với chức năng truyền đời. Chén cơm trắng ngần, thơm lừng hương gạo lúa mới được bới/đơm ra từ đôi đũa bếp; những dìa cơm cháy sém vàng hươm được cạy/lấy ra từ hông nồi, đáy nồi nhờ vào đôi đũa bếp giòn rộm, thơm nồng khi nhai, vị béo ngọt đọng lại nơi đầu lưỡi mới cảm thấu hết giá trị hạt ngọc của trời!
Bây giờ, có ai còn giữ đôi đũa bếp, đũa cả phần đầu vàng óng màu tre già, đầu kia đen đúa, lặng lẽ hao mòn hay không?
NGUYỄN ĐÌNH PHÊ 
 

Có thể bạn quan tâm

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

Thơ Đào An Duyên: Mây biên giới

(GLO)- “Mây biên giới” của tác giả Đào An Duyên là bài thơ giàu cảm xúc về vẻ đẹp thanh bình nơi biên cương Tổ quốc. Tác giả khắc họa hình ảnh cột mốc trong nắng dịu, mây trời không lằn ranh, rừng khộp lặng im... như một bản hòa ca của thiên nhiên và lịch sử...

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

(GLO)- Bằng hình ảnh thiên nhiên giàu biểu cảm, bài thơ "Những gương mặt hoa cài" của Lữ Hồng gợi nên vẻ đẹp bình yên ẩn sâu trong nhịp sống phố thị. Lời thơ không chỉ là hoài niệm, mà còn là nơi gửi gắm tình yêu, ký ức và những giấc mơ không lời giữa tháng năm xoay vần.

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

(GLO)- Bài thơ "Phía Trường Sơn" của Sơn Trần là khúc trầm sâu lắng về nỗi nhớ và sự hy sinh lặng thầm phía hậu phương. Tháng Tư về trên biên cương đầy cỏ xanh và chiều sương phủ trắng, nỗi nhớ hòa quyện cùng đất trời, tạo nên một bản tình ca sâu lắng dành cho cha-người lính năm xưa.

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

(GLO)- Đó là phát biểu của Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Châu Ngọc Tuấn tại hội nghị tổng kết 50 năm nền văn học nghệ thuật tỉnh Gia Lai sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) diễn ra vào sáng 23-4 tại Hội trường 2-9 (TP. Pleiku).

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

(GLO)- Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam có nhiều ca khúc không chỉ đơn thuần là tác phẩm nghệ thuật mà còn là biểu tượng của một vùng quê. Nơi ấy, tình yêu và nỗi nhớ không thể phai mờ. “Ngọn lửa cao nguyên” của nhạc sĩ Trần Tiến chính là một trong những ca khúc như thế.