Cơi trầu của nội

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Bà nội tôi thuộc lớp người xưa bên lũy tre làng, răng đen, bàn chân giao chỉ “đi như chạy suốt một đời” và luôn nhai trầu bỏm bẻm. Có hai vật dụng suốt ngày ở bên nội tôi là cái cơi trầu để ở tràng kỷ cùng ông bình vôi và chiếc bị trầu giắt bên mình mỗi khi ra khỏi nhà. 
Tôi không biết nội tôi “nghiện” ăn trầu từ lúc nào, từ thời còn con gái chăng? Hồi còn nhỏ, thấy nội suốt ngày nhai trầu rồi nhổ ra thứ nước màu đỏ tươi như máu, tôi hỏi bà ăn trầu có ngon không? Nội tươi cười: “Cha mi! Hỏi chi lạ rứa… Không ngon mà nội ăn suốt ngày được à! Cơm cá nội nhịn được đôi bữa, nhưng không có miếng trầu thì lạt miệng chịu không thấu, cháu ạ”. Khi đó, tôi vốn tò mò, lén nhặt miếng trầu đã têm cùng miếng cau tươi đưa vào miệng nhai thử có “ngon” như nội nói không?! Trời đất… Tôi nhai được vài phút, không dám nuốt nước thì mùi trầu xông lên tận đầu, miệng nóng ran như muốn bung lửa, nước mắt chảy ra ràn rụa đành phải nhổ ra và lấy nước ấm súc miệng. Từ đó, tôi không bao giờ dám đụng vào cơi trầu của nội.
Cơi trầu của nội hình trụ, đáy cạn, làm bằng đồng, có nắp đậy, lớn như chiếc tô canh bằng sành sứ ngày nay. Nội kể, đây là di vật từ thời cố nội để lại. Khi mới về làm dâu nhà này, nội đã nhìn thấy bà cố sử dụng rồi. Bấy giờ, tôi thầm hiểu, tục ăn trầu của người Việt đã có từ thời xưa. Đến khi đi học, đọc được sự tích “Trầu cau”-câu chuyện tình đầy trắc ẩn, bi thương, tôi mới hiểu được ý nghĩa của phong tục ăn trầu, mời trầu-“miếng trầu là đầu câu chuyện” trong tâm thức và truyền thống người Việt.
Minh họa: Thủy Ngọc
Minh họa: Thủy Ngọc
Trong cơi trầu của nội bao giờ cũng có năm bảy miếng trầu đã têm với ít lá trầu xanh, vài quả cau tươi, một ít vỏ khô cây chay và thuốc bổi (thuốc rê) cùng một con dao xếp nhỏ để bổ cau; tất nhiên không thể thiếu ông bình vôi lúc nào cũng nạp đủ thứ vôi trắng hồng dẻo quẹo mua ở chợ quê. Những thứ “nguyên liệu” cùng vật dụng này để chế biến một miếng trầu đúng nghĩa làm nên chất cay nồng, ấm nóng đủ độ thơm tho qua bàn tay khéo léo của nội. Nhà có vườn rộng, nội trồng hàng cau trước ngõ cùng những dây trầu nguồn tốt tươi quanh năm đủ để cung cấp cho nhu cầu hàng ngày. Khi buồng cau đủ độ già, nội thường sai tôi trèo hái. Đến mùa cau chín tới, ăn không kịp, nội bổ ra phơi khô để dành dùng dần cho những mùa sau. Những khi rảnh rỗi, nội lại dạy tôi cách têm trầu và ngâm nga những câu ca về tục mời trầu ngày xưa cho tôi nghe. Nhưng đến giờ, tôi chỉ thích và nhớ mấy câu hết sức tình cảm, chân phương của lớp người xưa: “Trầu này trầu tính trầu tình/Trầu loan, trầu phượng, trầu mình, trầu ta/Trầu này têm tối hôm qua/Giấu cha, giấu mẹ đem ra mời chàng”. Nội nói: “Têm trầu khéo là cả một nghệ thuật cháu ạ!”. Ngày xưa, con gái đi lấy chồng là phải biết têm trầu, bổ cau cho khéo. Người con trai chọn vợ chỉ cần nhìn vào miếng trầu têm của cô gái là có thể đoán được tính nết, sự giỏi giang của người phụ nữ tương lai mà mình gá nghĩa.
Ngày giỗ chạp thường có khách đông đúc, nội tôi trực tiếp ngồi tỉ mẩn têm những miếng trầu cánh phượng, cánh quế vừa cúng quảy tổ tiên, vừa để đãi khách, cũng còn là phô diễn bàn tay khéo léo của mình. Các cụ ông, cụ bà đến nhà được nội mời trầu đều xuýt xoa khen hết lời người têm trầu có bàn tay vàng khiến nội ấm lòng. Mỗi lần nhìn nội têm trầu, từ thao tác rọc lá trầu, gấp nếp lá, bôi vôi, rồi cài trầu một cách thành thục đạt đến kỹ năng cao; có thể vừa chuyện trò với khách vừa hoàn thiện miếng trầu một cách hoàn hảo, tôi đều hết sức khâm phục. Riêng cách bổ cau cũng phải cẩn trọng để sánh đôi cùng miếng trầu têm đẹp làm vừa mắt người ăn trầu. Quả cau được nội tôi chọn bao giờ cũng vừa già đúng độ tròn đẫy, dùng dao tước vỏ nhưng còn để lại những đường vân xanh mỏng bên ngoài; cắt núm nhưng không được gạt phăng đi đầu hạt cau bên trong. Rồi công đoạn bổ quả cau làm sáu hay làm tám? Thường thì với thiết diện quả cau vừa phải, người ta chỉ bổ ra làm sáu là đủ để ăn cùng miếng trầu cả về dung lượng và chất lượng. Nếu chỉ bổ ra làm bốn thì lớn quá, mà bổ ra làm làm tám thì mỏng manh không vừa vặn với miếng trầu têm, lại khó vừa lòng với mọi người…
Đi qua thế hệ của nội tôi, tục ăn trầu, mời trầu dường như đã phai nhạt dần. Đến thời mẹ tôi, trên mâm cúng quảy vẫn còn dâng đĩa trầu cau nhưng đã có ít người dùng đến. Khi nội tôi qua đời, mỗi lần quay lại vườn xưa nhìn hàng cau lúc lỉu quả chín vàng, những lá trầu khô héo rụng, lòng tôi nao nao với một nỗi buồn xa vắng… Có lẽ nào câu chuyện trầu cau lại trả về cổ tích?!
BÙI QUANG VINH

Có thể bạn quan tâm

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

Cặp đôi nghệ sĩ Nguyễn Cơ-Hồng Mai: Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

(GLO)- Cùng sinh năm rồng (1988) và lớn lên với tình yêu dành cho từng nhịp vũ đạo, Nguyễn Văn Cơ và Trần Thị Hồng Mai-hai nghệ sĩ trưởng thành từ Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San trở thành cặp đôi hiếm hoi của làng múa ở cao nguyên Pleiku, luôn song hành cả trên sân khấu và trong đời sống.

Ngọn đèn nhỏ bên khung cửa

Ngọn đèn nhỏ bên khung cửa

(GLO)- Chồng tôi nhận quyết định chuyển công tác vào một sáng cuối tháng Năm, khi sương vẫn còn giăng mờ trên những con dốc quen thuộc của phố núi Pleiku. Tin anh phải xuống Quy Nhơn theo diện hợp nhất 2 tỉnh không bất ngờ.

"Núi trên đất bằng"

"Núi trên đất bằng"

(GLO)- Tiến sĩ Hà Thanh Vân đã nhận xét Tiểu thuyết "Núi trên đất bằng" của Võ Đình Duy là một tác phẩm văn chương đầu tay ra mắt năm 2025, đánh dấu bước chuyển đầy bất ngờ từ một kiến trúc sư trẻ sống ở Gia Lai sang hành trình kiến tạo thế giới văn chương.

NHÀ THƠ ĐÀO AN DUYÊN: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

Nhà thơ Đào An Duyên: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

(GLO)- Với nhà thơ Đào An Duyên, đọc và viết chính là hành trình nuôi chữ. Trong hành trình ấy, chị chọn một lối đi riêng, chắt chiu xúc cảm, gửi tiếng lòng vào từng con chữ với niềm mong giữ lại những xanh tươi cuộc đời, từ đó góp thêm một giọng thơ giàu hương sắc cho văn chương Gia Lai.

BẢO TỒN CÁC KỊCH BẢN TIÊU BIỂU CỦA HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

Bảo tồn các kịch bản tiêu biểu của hát bội Bình Định: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

(GLO)- Hát bội Bình Định là một di sản văn hóa đặc sắc với nhiều vở tuồng kinh điển như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Ngũ hổ Bình Tây, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (còn có tên khác là Chém cáo, Cổ miếu vãn ca) của Nguyễn Diêu, Trầm hương các, Diễn võ đình và Cổ thành… của Đào Tấn.

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

(GLO)- Nếu như Tây Bắc có “tứ đại danh đèo”: Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có “ngũ danh đèo”: An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.

default

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. 
Pleiku, miền nhớ...

Pleiku, miền nhớ...

(GLO)- Nếu tính từ dấu mốc ký Nghị định Toàn quyền Đông Dương thành lập đại lý hành chính Pleiku thuộc tỉnh Kon Tum ngày 24-5-1925, Pleiku với ý nghĩa một địa danh cả về cách đọc và cách viết đã ra đời và tồn tại đến ngày nay đã được 100 năm.

Ðại ngàn nối liền những niềm vui

Ðại ngàn nối liền những niềm vui

Trong ngôi nhà sàn dưới chân núi ở làng K8, xã Vĩnh Sơn (huyện Vĩnh Thạnh), Nghệ nhân nhân dân Ðinh Chương nở nụ cười sảng khoái, hồ hởi nói: “Bà con trong làng đang trông chờ ngày 1.7.2025, để không chỉ núi liền núi, sông liền sông mà đồng bào Bana ở hai tỉnh trước đây sẽ về chung mái nhà tỉnh Gia Lai mới”.
null