Chữ tình

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Mẹ kể, ông Sáu và bà Tư làm đám cưới “dã chiến”, hấp tấp một mâm cơm rồi ông Sáu về lại chiến trường.

Chồng ở chiến khu xa lắc, bà Tư thân gái mơn mởn, “có chồng cũng như không”. Mẹ nói, hoa đẹp thì có nhiều ong bướm lượn lờ, bà Tư yếu lòng nên cũng đôi lần sa ngã. Đấy là chính miệng bà Tư bộc bạch với mẹ chứ chuyện đó thuộc hàng bí mật “trời không biết đất không hay”. Ba mẹ ông Sáu thương dâu hơn con, cứ xuýt xoa cảnh dâu trẻ thiếu hơi chồng nên họ cưng chiều bà Tư như cum núm cưng con. Bà Tư sống với gia đình chồng nhưng được áo lụa phủ phê, do hồi ấy nhà ông Sáu cũng thuộc dạng khá. Rồi ba mẹ chồng lần lượt mất, bà Tư cũng chẳng phải lo thuốc thang ma chay gì hết, chuyện ấy có chú Út của ông Sáu lo, di nguyện của ba mẹ ông là gửi vào chùa thờ cúng. “Ba mẹ chồng bệnh mất thì tiền tài cũng bốc hơi luôn. Cũng may, hết nhờ cha mẹ thì tới nhờ chồng. Tóm lại bà Tư có số sướng!”-đó là nhận xét của mẹ tôi.

 

Minh họa: Kim Hương
Minh họa: Kim Hương

Chiến tranh kết thúc, ông Sáu về làng bằng đôi nạng gỗ. Người ta không hình dung được vẻ mặt của bà Tư nhưng nghe khẩu khí của ông Sáu thì tin là mọi sự vẫn ổn, rằng “tớ vẫn còn đôi tay mạnh mẽ để ôm vợ mà”. Còn phát ngôn của bà Tư thiệt là “phải đạo”: “Binh lửa ác liệt, về được là mừng rồi chớ mong gì lành lặn!”.

Từ ngày chồng về, bà Tư tỉa tót hơn, nói cười rổn rảng hơn. Nghe mấy người nhiễu sự bình phẩm về chuyện này, mẹ tôi gắt: “Vắng chồng điểm phấn tô hồng với ai ? Giờ chồng về thì người ta sửa soạn chớ sao!”. Cái lý lẽ của mẹ nghe mới đúng làm sao. Tôi hoàn toàn nhất trí.

“Cái thứ đàn bà nhớt thây, người ta cùi cụt mà bắt làm thiếu điều sụm lưng gãy cổ!”. Người ta thấy ông Sáu đứng vung cuốc trên miếng đất bên sông vỡ hoang thì trêu chọc, cạnh khóe. “Không làm thì lấy gì để tớ cho vào mồm bây giờ?!”-ông Sáu cười hề hề nói vậy, còn chú thích thêm: “Tớ làm nàng khổ suốt thời con gái rồi, giờ phải lấy công chuộc “tội” chớ...”.

Vỡ xong miếng đất, ông Sáu dựng lều trồng rau trồng bí. Ông ở ngoài trại nhiều hơn ở nhà. Phải chứng kiến cảnh một đôi nạng gỗ bắt sâu, phun thuốc, gánh đôi thùng tưới nước thì mới hiểu được nghị lực của một người lính. Mà công nhận ông mát tay thiệt, rau xanh mướt, bầu bí nằm vắt cục vắt hòn. Người ta tới tận đám mua sỉ, ông cầm tiền về cho bà Tư đếm. Nhiều người lại xì xầm: “Bà Tư bây giờ nhìn mướt mát lắm, chồng quần quật ở ngoài trại, bà ấy ngồi sòng tứ sắc với trai, cười ha há suốt đêm”.

Rồi ông Sáu bất ngờ đổ bệnh, một cơn đột quỵ không nặng không nhẹ. Nằm bết giường một tháng. Trận ốm đã vắt hết sức lực của người không lành lặn. Ông tiều tụy, gầy rạc. Miếng đất bên sông biến thành cánh đồng mọc đầy gai mắc cỡ. Bà Tư mặt mày lúc nào cũng sưng xỉa, “mấy đồng tiền hỗ trợ không đủ mua rau mua mắm mà suốt ngày nằm ho lụ khụ, trời ơi, sống thế này thì thà chết quách còn hơn...”.

Rồi một ngày, không nhớ rõ là ngày nào, chỉ nhớ là hôm ấy người ta thấy ông Sáu lẩy bẩy chống nạng ra chợ. “Trời ơi, mụ vợ đâu? Gửi ai mua giùm chớ cần chi phải nách cái nạng ra tận chợ mua rau? Khổ quá!”. Ông Sáu chỉ lặng lẽ cười chứ không tiết lộ chuyện bà Tư đã thu dọn sạch sẽ hành lý.                                            

*
Thím Mận xóm bên góa bụa, tính tình điềm đạm, kính già yêu trẻ nên ai cũng quý mến. Chồng thím Mận với ông Sáu là chỗ bạn bè chí cốt. Họ ở nhà là bạn, ra chiến trường là đồng chí. Nhưng ông Sáu thì may mắn nhận được vé khứ hồi, còn chồng của thím Mận thì không.

Thím Mận đơn chiếc ở tuổi ba lăm, thím rất coi trọng chuyện lễ giáo nên giữ gìn khuôn phép, không bao giờ vướng vào chuyện thị phi. Ngày còn bà Tư ở nhà, ông Sáu có đến nhà thím Mận vào ngày giỗ bạn để thắp hương. Ông thường đến sớm, rồi rất tự nhiên lo chuyện hoa quả, cắt đặt sắp xếp. Mấy cái miệng nhiễu sự lại thọt thẹt. Bà Tư khó chịu, vậy là ông Sáu không sang nhà bạn nữa. Thím Mận nhạy cảm, với lại cũng không muốn cho người khác cơ hội để đàm tiếu nên cũng tránh chạm mặt với vợ chồng ông Sáu.
- Bà Tư bỏ nhà đi rồi, ông Sáu ương yếu nằm chèo queo bên đó, thím rảnh thì qua thăm ổng chút!

Mẹ tôi tình nguyện làm “liên lạc”. Thím Mận thấy tình cảnh ông Sáu thiệt bất nhẫn nên thường xuyên sang hỏi han, đun ấm nước, sắc thang thuốc, khi xách nải chuối, lúc mang rổ trứng... Những ngày hiếu hỉ, giỗ chạp, thím sang lo chuyện chợ búa, sửa soạn hương khói đặng ông Sáu cúng kính.

Giờ thì mẹ tôi muốn làm bà mối. Mẹ thăm dò tình ý của ông Sáu, thím Mận bằng những câu gán ghép bâng quơ nhưng ngấm ngầm liên lạc với con gái thím Mận cùng phối hợp “tác chiến”. Khi con gái đề nghị chuyện “về cùng mái nhà” thì thím Mận nhảy nhổm:
- Là chỗ tình nghĩa giúp nhau, ổng còn vợ con đàng hoàng, đừng có gán ghép bậy bạ, không nên!
Còn ông Sáu cười cười:
- Đầu đã không còn một cọng tóc đen rồi, đừng trêu chọc sẽ mất tự nhiên!
“Ông Sáu và thím Mận có tình ý thiệt nhưng còn ngại đó!”-mẹ tôi thúc tới. Con gái thím Mận viện đủ lý do làm khó mẹ rồi kêu ông Sáu bằng “ba”. Đến nước này thì ông Sáu, thím Mận cũng không phân vân, nghĩ ngợi gì nữa. Thôi thì tùy duyên vậy!

Con gái thím Mận vừa dọn đồ về lại thành phố thì bên nhà ông Sáu có chiếc tắc xi đậu trước cổng.
Ông Sáu nhìn ra cửa, đứng thất thần một chập rồi tập tễnh ra xách hành lý vào. Bà Tư quần áo lụa là, chậm rãi vào nhà, quan tâm:
- Sao, lâu nay ông vẫn khỏe chứ?
- Khỏe!
- Tui về tới đầu xóm thì nghe chuyện của thím Mận rồi…- bà Tư nói bằng giọng hăng xằng-ngày mai tôi sẽ gặp thím ấy ba mặt một lời.
- Đừng có nhiều chuyện, đi đã lặng lẽ thì về đừng ồn ào!
Ông Sáu nói nhẹ nhàng vậy ý chừng vẫn không ngăn được cơn ghen đang bùng phát.
Bà Tư vẫn hẹn gặp thím Mận:
- Nay tui về rồi, anh Sáu thím để tui lo.
- Âu cũng là duyên! - Thím Mận chỉ nói được chừng ấy.

“Đi đâu mà nay mới về?”. Ai gặp bà Tư cũng hỏi câu này. “Tui đi vào thành phố làm vú em. Nếu xin phép ông Sáu rồi đi thì ổng sẽ không bao giờ cho nên tui lẳng lặng. Nay cũng để dành được ít, mắt mờ tay run rồi thì về hủ hỉ với chồng già”. Bà chỉ kể tới chừng ấy thôi. Nhưng cô Thơm ở thành phố về thăm nhà oang oang kể rằng: Có ông nọ già giàu có mới mất vợ, con cái định cư ở nước ngoài hết. Ông nhờ cô tìm người ở quê lo lau dọn nhà cửa, cơm nước. Một bữa, cô gặp bà Tư lang thang ngoài bến xe với cái tay nải bèn lại chở về thưa chuyện với ông nọ. Bà Tư đồng ý cái rụp. Danh nghĩa là người ở nhưng sau bà Tư đau mắt, không làm lụng gì được thì ông kêu người khác tới làm, bà Tư từ người ở trở thành vợ không hôn thú. Ông ấy là người tốt, trọng cái tình. Nhưng rồi một bữa ông ngủ một giấc và đi luôn, con cái ông về giành hết nhà cửa, đuổi bà Tư đi.

Về với ông Sáu được mấy hôm thì mắt bà Tư tắt hẳn.
*

Bây giờ, mỗi sáng, người ta thấy ông Sáu cắp chiếc nạng gỗ ra ngồi ở cổng chợ bán vé số. Người ta còn thấy thím Mận hay ghé mua vé số, mỗi lần lại mua thì hỏi: Chị Tư vẫn khỏe chứ anh?

Nguyễn Thị Bích Nhàn

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.