Thầy giáo Kpă Pual kể rằng: Ngày xưa, người dân từ Krông Pông (Đắk Lắk) di cư sang lập làng tại vùng đất này nên lấy tên là buôn Pông (tức buôn Gum Gốp, xã Ia Rmok, huyện Krông Pa ngày nay) để ghi nhớ quê hương bản quán.
Ngày mới về trường, đời sống giáo viên chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn. Nhà công vụ chật chội, xa chợ, xa trung tâm huyện. Trường cũng được đầu tư đào giếng nhưng không có nước. Mọi sinh hoạt của chúng tôi đều nhờ cậy vào sông Ba.
Buổi chiều, tôi cùng đồng nghiệp thường theo bà con ra bến nước buôn Pông để lấy nước, tắm giặt. Các bà, các mẹ khoét sâu xuống bãi cát chỗ mép sông, chờ nước mạch ra rồi đổ qua bộ lọc bằng vải vào cái can nhựa hoặc vỏ bầu, rồi gùi về nhà.
Đám trẻ nhỏ trong làng cũng rủ nhau ra bãi cát gần đấy đá bóng. Tan cuộc, chúng chạy ùa vào vục nước uống rồi ào ra sông tắm mát dưới sự giám sát của người lớn. Đến đêm, thanh niên trong làng mang lưới, đèn pin hoặc đốt đuốc ra bến nước bắt cá và ngủ lại ở đó. Sớm mai lại có người ra bến lấy nước. Chính vì thế, bến nước buôn Pông luôn rộn rã tiếng cười nói. Họ cùng nhau chia sẻ công việc, buồn vui trong cuộc sống. Hầu như mọi chuyện trong làng đều được truyền đi tại bến nước nên tôi còn gọi nó là “bến thông tin”.

Với người Jrai, vạn vật từ hạt thóc, con dao, ghè rượu… đều có linh hồn và mỗi thứ đều có cuộc sống riêng. Mỗi điều may rủi xảy ra với từng người, từng nhà, từng cộng đồng đều có liên hệ giữa họ với thế giới chung quanh. Nhất là nguồn nước-nơi nuôi sống họ mỗi ngày. Bởi thế mới có tục cúng bến nước nhằm tạ ơn và cầu xin thần linh phù hộ cho dân làng có sức khỏe dồi dào, không ốm đau.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, học giả Jacques Dournes-một nhà “Tây Nguyên học” đã tinh tế nhận ra điều cốt lõi và sâu sắc nhất trong lễ cúng bến nước của người địa phương chính là đề cao thông điệp gìn giữ toàn vẹn và bền vững không gian sống của mình. Họ đã biết vận dụng yếu tố tín ngưỡng, tâm linh để thực hiện một cách khôn khéo thông điệp này.
Trong một lần tham dự lễ cúng bến nước, tôi được nghe già làng Rơ Ô Bhung chia sẻ: Trước khi tổ chức nghi lễ, già kêu gọi sự đóng góp của các hộ gia đình trong làng để mua lễ vật. Phụ nữ quét dọn, nhặt rác nơi đường làng, bến sông. Thanh niên trai tráng vào rừng chặt nứa, tre để đựng nước, dựng 2 cây nêu. Cây nêu lớn được dựng ngay trước nhà dài nơi đặt lễ cúng, còn cây nêu nhỏ dùng khi đoàn rước đi rước hồn nước. Lễ vật là 5 ché rượu, 1 con heo lớn và 1 con gà trống thiến.
Bên cạnh lễ cúng bến nước với mong muốn cầu sức khỏe, bình an, người Jrai nơi đây còn cho rằng nước cũng giúp con người “tẩy trần” mọi sự không may mắn nên mới có tục tắm sông xả xui. Nếu như lễ cúng bến nước mang tính cộng đồng thì lễ tắm sông xả xui lại là của cá nhân nào đó. Lễ này cũng được tổ chức tại bến nước của làng, mong mọi chuyện tốt đẹp trở lại. Lễ vật gồm 1 con heo, 1 con vịt và 1 ché rượu cần. Người gặp chuyện không may phải trực tiếp xuống tắm tại bến sông mong dòng nước cuốn đi xui xẻo, muộn phiền. Khi cúng xong, họ đem lễ vật về nhà để thết đãi dân làng.
Thời gian trôi qua, người ta ngăn đập thủy điện Sông Ba Hạ (Phú Yên) nơi hạ nguồn sông Ba. Khúc sông chảy qua bến nước buôn Pông trở thành khu vực chứa nước. Hầu như quanh năm nước đầy nên không còn bãi cát để bà con đào hố lấy nước như xưa. Thay vào đó, dân làng dùng nước giếng khoan hay nước bình. Các lễ cúng liên quan đến bến nước dần thưa vắng. Bến nước buôn Pông giờ chỉ còn là ký ức trong tôi và người dân ngày ấy.