Phát huy sức mạnh văn hóa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Khi các giá trị văn hóa, di sản và nghệ thuật tạo ra lợi nhuận nó không chỉ tự “nuôi sống” mình mà còn góp phần tạo thêm những nguồn lực mới, tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của ngành công nghiệp văn hóa.

Khi các giá trị văn hóa, di sản và nghệ thuật tạo ra lợi nhuận nó không chỉ tự “nuôi sống” mình mà còn góp phần tạo thêm những nguồn lực mới, tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của ngành công nghiệp văn hóa. Trong đó, điện ảnh luôn được nhìn nhận là ngành công nghiệp văn hóa đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao, từ quy trình sản xuất, phát hành đến chiến lược tiếp thị và tạo ra lợi nhuận đáng kể.

Nhìn lại khoảng hai thập niên trở về trước, điện ảnh Việt phổ biến các tác phẩm được sản xuất theo hình thức đặt hàng, sống nhờ “bầu sữa ngân sách” nên phần lớn thiếu các yếu tố quan trọng của một ngành công nghiệp. Vì thế, vòng đời của phim ngắn và khó tiếp cận đại chúng. Khi làn sóng xã hội hóa lan rộng, đặc biệt là tại TPHCM - nơi các nhà sản xuất tư nhân nhanh chóng nhập cuộc, điện ảnh mới kiến tạo một thị trường sôi động. Kết quả là hàng loạt tác phẩm đạt doanh thu cao, từ vài tỷ đồng đến hàng trăm tỷ đồng liên tục xuất hiện, nhất là trong 5 năm trở lại đây. Điện ảnh trở thành minh chứng tiêu biểu của câu chuyện thương mại hóa thành công.

Điện ảnh là ví dụ điển hình sử dụng chính các giá trị của mình để tạo ra nguồn lực, thúc đẩy phát triển theo hướng bền vững và độc lập hơn. Trong thực tiễn, nhiều lĩnh vực thuộc công nghiệp văn hóa khác, như du lịch văn hóa, nghệ thuật biểu diễn, thời trang… cũng đã chứng minh tiềm năng tạo ra giá trị lợi nhuận lớn. Các chương trình nghệ thuật, đêm concert như Anh trai vượt ngàn chông gai, Anh trai say hi hay những điểm đến du lịch văn hóa được yêu thích, những dấu ấn thời trang Việt tại các sàn diễn trong và ngoài nước... cho thấy phần nào thành công của quá trình thương mại hóa văn hóa một cách sáng tạo, đúng hướng.

Thành công của mô hình “lấy văn hóa nuôi văn hóa” trước hết nằm ở việc từng bước xóa bỏ định kiến văn hóa chỉ là lĩnh vực tiêu tiền. Khi văn hóa có thể tự tạo ra giá trị, tự nuôi sống và tái đầu tư cho chính mình cũng đồng nghĩa với việc giảm dần lệ thuộc vào ngân sách nhà nước. Bởi bản chất của quá trình “thương mại hóa văn hóa” là đưa các lĩnh vực văn hóa vào dòng chảy chung của nền kinh tế. Khi được nhìn nhận như một loại hình sản phẩm hàng hóa đặc biệt, văn hóa buộc phải tuân theo các quy luật cơ bản: cung cầu, cạnh tranh, giá trị sử dụng và khả năng tiêu thụ. Điều đó đặt ra yêu cầu sản phẩm văn hóa muốn tồn tại và phát triển trước hết phải sống được trên thị trường. Muốn vậy, cần phá vỡ các khuôn sáo cũ, nhất là trong tư duy sản xuất theo kiểu “đặt hàng”, để hướng tới việc thấu hiểu nhu cầu và thị hiếu của công chúng. Khi văn hóa đáp ứng được thị trường, không chỉ thu hút được sự quan tâm của xã hội mà còn mở ra cơ hội huy động nhiều nguồn lực, bao gồm cả đầu tư ngoài ngành - yếu tố rất quan trọng để làm “dày vốn” cho phát triển văn hóa. Từ đây, một vòng tuần hoàn tích cực được thiết lập: đầu tư sinh lợi - tái đầu tư - thị trường mở rộng - đời sống văn hóa phong phú - đóng góp cho GDP tăng lên. Đó chính là con đường khả thi để xây dựng một nền công nghiệp văn hóa vừa có bản sắc, vừa có sức sống kinh tế, gần gũi với cộng đồng và hòa nhập vào dòng chảy phát triển chung.

Tuy nhiên, “lấy văn hóa nuôi văn hóa” không thể thành hiện thực trong một sớm một chiều. Đó là một quá trình cần lộ trình rõ ràng, chiến lược phù hợp và hệ thống giải pháp đồng bộ. Trong tiến trình ấy, nhà nước vẫn giữ vai trò nền tảng: xây dựng hành lang pháp lý, hoạch định chính sách, điều tiết thị trường và ban hành cơ chế khuyến khích phát triển. Song, điều cốt lõi là phải kiến tạo được một hệ sinh thái văn hóa bền vững - nơi các nguồn lực được quy hoạch, đầu tư bài bản, dài hạn, đúng trọng tâm, trọng điểm, chất lượng và trên hết phải đảm bảo bản sắc dân tộc, phù hợp xu hướng hội nhập. Chỉ khi văn hóa trở thành một lĩnh vực có khả năng sinh lợi, có năng lực xuất khẩu và có chỗ đứng rõ nét trong đời sống xã hội cũng như nền kinh tế thì “lấy văn hóa nuôi văn hóa” mới không còn là một khẩu hiệu mà trở thành hiện thực sống động và khả thi.

Theo VĂN TUẤN (SGGPO)

Có thể bạn quan tâm

Lệch chuẩn vì 'sống ảo'

Lệch chuẩn vì 'sống ảo'

Thời gian gần đây, tại Nghệ An và một số địa phương khác xuất hiện các nhóm thanh, thiếu niên tụ tập phóng xe máy như bay, nẹt pô trên các tuyến phố và tỉnh lộ vào đêm khuya, thậm chí mang theo hung khí, vỏ chai để 'thị uy'.

Giảm họp, tăng hiệu quả xử lý công việc

Giảm họp, tăng hiệu quả xử lý công việc

Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú vừa ký ban hành Kết luận số 226-KL/TW của Ban Bí thư về việc chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị (Kết luận 226), đã tạo sự chú ý lớn trong đội ngũ cán bộ, công chức cả nước.

Quyền học tập và cam kết quyền con người của Việt Nam

Quyền học tập và cam kết quyền con người của Việt Nam

Hôm nay là kỷ niệm 77 năm Ngày Nhân quyền thế giới (10-12-1948 - 10-12-2025). Với bất kỳ quốc gia nào, không có quyền nào tác động sâu rộng đến tương lai của một dân tộc như quyền được học tập. Đây là quyền mở ra mọi quyền khác: quyền tiếp cận cơ hội, quyền phát triển, và quyền vươn lên bình đẳng.

Cứu trợ bằng cả tình yêu thương

Cứu trợ bằng cả tình yêu thương

Những địa phương đã và đang bị lũ lụt tàn phá bao gồm một diện rất rộng, gần như cả miền Trung. Trong đó, có những vùng đất chịu sự tàn phá rất nặng nề, như Phú Yên và Bình Định (cũ) với hàng chục người chết và mất tích, hàng vạn ngôi nhà bị ngập lụt, hư hỏng…

Công bằng thuế

Công bằng thuế

Đó là vấn đề người đóng thuế cần nhất và quan điểm này cũng được 'tư lệnh' ngành tài chính ủng hộ khi xây dựng ngưỡng doanh thu chịu thuế cho hộ kinh doanh trong giai đoạn sắp tới.

Hành chính không giấy tờ

Hành chính không giấy tờ

Thủ tục sao y chứng thực từ lâu đã vô hình trói buộc người dân và doanh nghiệp trong một quy trình hành chính vừa tốn kém, vừa vô lý. Đó không chỉ là sự lãng phí tài nguyên mà còn là biểu hiện của thói quen thiếu niềm tin vào dữ liệu và công nghệ.

Khi dân số già đi

Khi dân số già đi

Từ năm 2024, dân số nước ta đã đạt hơn 101 triệu người, chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người (HDI) không ngừng tăng lên; tuổi thọ bình quân người VN ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, thực trạng dân số VN cũng đã phát sinh những vấn đề phải kịp thời giải quyết.

null