Những chứng tích cổ vùng đất Vua voi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Ngày nay, vùng đất Vua voi ở Đắk Lắk vẫn lưu giữ nhiều chứng tích cổ, huyền bí chẳng nơi nào có được. Người dân đã biết tận dụng những thế mạnh của địa phương để thu hút du khách...

Lưu giữ những dấu tích

Trên quãng đường hơn 50km từ TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) đến mảnh đất huyền thoại của nghề săn bắt và thuần dưỡng voi, nhiều du khách nói rằng, nghe nhiều về miền đất được xem như một điểm nhấn trong bức tranh du lịch Đắk Lắk, mặc dù biết mùa khô nắng gió, nhưng vẫn quyết đi. Họ đi để biết, để được trải nghiệm những đặc sản ở vùng đất đa sắc màu này.

Gần trưa, con đường nhựa chạy giữa buôn Trí (xã Krông Na, huyện Buôn Đôn) nắng chói chang. Dừng chân trước ngôi nhà sàn gỗ bên dòng Sêrêpốk hùng vĩ, chị Nguyễn Phương Hoàng Yến (du khách Đà Nẵng) chia sẻ, ngôi nhà cổ của vua săn voi Y Thu 140 năm tuổi, một điểm nhấn du lịch ở đây. Tôi từng vào tham quan cách đây vài năm. Du khách tìm đến đây ngoài thăm ngôi nhà sàn cổ hơn trăm năm tuổi còn chiêm ngưỡng nét đặc trưng kiến trúc văn hóa và tìm hiểu câu chuyện về cuộc đời của vị vua săn voi này.

Ông Y Hăn Bkrông (67 tuổi) và nhiều người già ở Buôn Đôn cho biết, lúc họ sinh ra và lớn lên đã thấy ngôi nhà sàn của vua săn voi Y Thu Knul to và đẹp nhất Bản Đôn (cũ). Khi còn sống, ông Y Thu Knul là người có tiếng nói quan trọng trong cộng đồng các dân tộc Êđê, Mnông,... cùng chung sống bên dòng Sêrêpốk.

Ngôi nhà cổ này được ông xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, theo kiến trúc chùa tháp của Lào - Thái. Công trình gồm 3 gian song song liền kề, được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ. Theo tư liệu gia phả ghi lại, để làm ngôi nhà này, chủ nhân đã huy động 18 con voi vào rừng khai thác gỗ, cùng 14 thợ lành nghề do thợ cả Tha Vi Vông Khăm Sao (một nghệ nhân điêu khắc gỗ người Lào) chịu trách nhiệm thiết kế, khởi công từ tháng 10/1883 và hoàn thành tháng 2/1885.

Trong oi bức của mùa khô Tây Nguyên, bước vào nhà, cảm giác mát lạnh xâm chiếm. Ngày nay nghề săn voi chỉ còn lại trong những câu chuyện kể. Trải qua hơn trăm năm thăng trầm, những dấu tích của nghề săn voi vẫn được lưu giữ. Những tấm bảng đặt cạnh hiện vật ghi rõ tường tận từng vật dụng. Sợi dây da trâu dài từ 90-120m là dụng cụ chính phục vụ cho việc săn bắt voi rừng.

Để tạo ra một bộ dây thừng hoàn chỉnh, cần sử dụng da của bảy con trâu đực. Sau khi được bện kỹ lưỡng, dây được phơi trên cây trong suốt 3 tháng (cả ngày lẫn đêm) và chỉ được đưa vào sử dụng sau khi đã làm lễ cúng trong một mùa rẫy. Dây chắc, bền, sử dụng cả trăm năm mà không mục nát.

vua-voi.jpg
Nhiều lễ hội truyền thống được bà con duy trì, phát huy và bảo tồn

Tấm nệm lót bành voi, chỉ dành riêng cho thợ săn có kinh nghiệm, săn ít nhất 72 con voi, được làm từ da min (trâu rừng). Chiếc mâm đồng được đưa từ Lào vào Việt Nam năm 1859, là vật dụng dùng để đặt lễ vật cúng thần trước mỗi cuộc hành trình săn voi.

Ông Vũ Minh Thoại, Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin huyện Buôn Đôn cho hay, tại địa bàn huyện còn lưu giữ nhiều kỷ vật liên quan đến gia tộc săn voi Y Thu Knul, trong đó có ngôi nhà sàn cổ. Trước đây, ngành văn hóa đã đặt vấn đề về công tác bảo tồn đối với ngôi nhà này nhưng gia đình không đồng ý. Thời gian qua, ngôi nhà sàn cổ trở thành một điểm đến thú vị.

Đang dọn dẹp khu mộ, ông Y Phương (70 tuổi) cho biết, khu lăng mộ này vừa là một công trình kiến trúc độc đáo, vừa là một nét văn hóa tâm linh của đồng bào dân tộc nơi đây. Ở khu mộ này vua săn voi chỉ có một, còn lại là Gru (dũng sĩ hay nghệ nhân săn voi). Ông Y Thu Knul (1828 - 1938) có bố người Mnông, mẹ người Lào.

Ông Y Thu là ông tổ của nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng tại khu vực Tây Nguyên. Ông được vua Xiêm La gọi là Khun Su Nốp, có nghĩa “Vua săn voi” khi hiến tặng một con bạch tượng. Bao năm nay, gia đình ông Y Phương vẫn trông coi và dọn dẹp cho khu mộ này.

Cần tạo sản phẩm đặc trưng

Chiều buông, những khu hàng hóa đa sắc màu với sản phẩm đặc trưng của người Êđê, Mnông, Lào…thu hút một vài nhóm du khách. Lựa chiếc túi có họa tiết thổ cẩm, chị Nguyễn Thảo Tường Vy (du khách Hà Nội) cho biết, chị và 2 cô con gái khá thích hàng thổ cẩm, lần nào đi du lịch đến đây đều mua vài món về lưu niệm.

2vuavoi.jpg
Du khách tham quan, tìm hiểu các kỷ vật liên quan đến nghề săn voi

Gia đình chị thường chọn đến đây đúng mùa lễ hội, để được trải nghiệm tìm hiểu nhiều nét đặc trưng văn hoá của các dân tộc. “Năm vừa rồi, gia đình tôi đến đúng dịp diễn ra lễ hội Bunpimay là tết cổ truyền của người Lào. Mê mẩn điệu múa lăm vông uyển chuyển của các cô gái Lào. Được trải nghiệm các hoạt động: Lễ hội hoa đăng - thả bè - lễ cầu may, lễ tắm Phật, đắp tháp cát, giao lưu văn nghệ, thưởng thức ẩm thực Lào”, chị Vy cho hay.

3vuavoi.jpg
Lễ công bố buôn Du lịch cộng đồng Buôn Trí, buôn du lịch cộng đồng đầu tiên của huyện Buôn Đôn

Ông Bun Mi Lào (xã Krông Na) chia sẻ, ở đây, nhìn qua khó có thể phân biệt đâu là người gốc Lào, đâu là người Êđê, Mnông. Người Êđê lấy người Lào, người Lào lấy người Mnông không còn là chuyện hiếm hoi nữa. Đến nay vùng đất Buôn Đôn đã có trên 100 hộ gia đình người Việt gốc Lào, tập trung chủ yếu ở xã Krông Na.

Buôn Trí, xã Krông Na, huyện Buôn Đôn hiện có khoảng 350 hộ, với 12 dân tộc cùng sinh sống như Lào, Êđê, Kinh, Mnông, Gia Rai... Nơi đây còn duy trì nhiều lễ hội truyền thống và văn hóa ẩm thực độc đáo của các dân tộc. Hiện nay, Buôn Trí vẫn còn giữ được trên 100 ngôi nhà sàn truyền thống; các nghề thủ công đan lát, dệt thổ cẩm, ủ rượu cần...

Trong năm 2024, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk phối hợp với các đơn vị tổ chức lễ công bố buôn Du lịch cộng đồng Buôn Trí. Đây là buôn du lịch cộng đồng đầu tiên của huyện Buôn Đôn.

Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk - Nguyễn Thụy Phương Hiếu chia sẻ, để mô hình du lịch cộng đồng Buôn Trí phát triển ổn định, bền vững, Ban Quản lý Du lịch cộng đồng Buôn Trí thực hiện tốt quy chế hoạt động, cùng người dân quản lý phát huy tốt các tài sản được hỗ trợ, đồng thời đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm các dịch vụ, môi trường, văn minh, giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Các doanh nghiệp du lịch lữ hành phối hợp cùng Ban Quản lý du lịch cộng đồng buôn quan tâm xây dựng chương trình du lịch gắn với hoạt động du lịch của buôn.

Theo NGUYỄN THẢO (TPO)

Có thể bạn quan tâm

Chuyện thường ngày của người lính tình nguyện ở Đức Cơ

Chuyện thường ngày của người lính tình nguyện Võ Văn Sung

(GLO)- Vừa đi phiên dịch cho các đồng chí lãnh đạo tỉnh về lại gặp đoàn cựu chiến binh có nguyện vọng đi thăm chiến trường xưa, không cách nào từ chối, anh Võ Văn Sung-Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị tỉnh Gia Lai lại khăn gói lên đường vừa làm hướng dẫn viên vừa kiêm phiên dịch cho các đồng đội cũ.

Các dự án triển khai dang dở, kéo dài (trong ảnh là đoạn đường cụt giữa TP. Gia Nghĩa do vướng mặt bằng) làm lãng phí nguồn lực đầu tư công

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ 4: Gia Lai ngày ấy, bây giờ...

(GLO)- Sau ngày giải phóng năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai đã cùng chung sức, kiến thiết lại quê hương từ đống hoang tàn của chiến tranh. Đến nay Gia Lai đã vươn mình phát triển mạnh mẽ, từ đô thị đến nông thôn khoác lên mình màu áo khang trang. 

Chuyện đời mẹ liệt sĩ 115 tuổi

Chuyện đời mẹ liệt sĩ 115 tuổi

Năm nay, cụ Nguyễn Thị Tý ở xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, Hà Nội đã sống hơn trăm năm có lẻ, mà phần “lẻ” ấy lại không hề nhỏ tẹo nào. Ở tuổi 115, cụ hiện vẫn khỏe mạnh bên các con và 23 cháu, 43 chắt và 14 chút nội, ngoại…

Xanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ 3

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ 3: Đường 7 hồi sinh…

(GLO)- Đường 7 (nay là quốc lộ 25) từng chứng kiến cuộc rút chạy hỗn loạn của quân ngụy vào tháng 3-1975. Nửa thế kỷ trôi qua, vùng đất ấy không còn dáng dấp hoang tàn của chiến tranh mà đã khoác lên mình diện mạo mới, trù phú, màu mỡ và yên bình.

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Từ bao đời nay, với người dân trên đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), mỗi khi có người thân gặp nạn ngoài biển mà không tìm thấy xác, gia đình họ sẽ tìm đến “pháp sư” nhờ nặn một “hình nhân thế mạng” bằng đất sét, thực hiện nghi lễ chiêu hồn, nhập cốt rồi mang đi chôn như người quá cố.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 5: Chuyện về người chiến sĩ nhiều lần cảm tử, góp công giải phóng miền Nam

Phải hẹn rất nhiều lần, tôi mới gặp được người cựu chiến binh, Đại uý Nguyễn Đức Trọng (SN 1956, quê quán xã Long Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An, người góp công cùng đồng đội tham gia giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 4: 'Địch đánh núi Dinh thành vôi, các đồng chí sẽ thành tượng đá'

Khi ấy, có lúc nguy nan, đồng chí Phó Chính ủy Trung đoàn 812, Đại tá Nguyễn Văn Tý động viên chúng tôi: Bọn địch đánh núi Dinh thành vôi, các đồng chí sẽ thành tượng đá. Dù sống hay chết, chúng ta đều là những anh hùng của dân tộc này!.., ông Nguyễn Công Binh nhớ lại.

Về Đất Tổ nghe chuyện cây nghìn năm tuổi - Bài 2: Những đại lão mộc bên dòng sông Bứa

Về Đất Tổ nghe chuyện cây nghìn năm tuổi - Bài 2: Những đại lão mộc bên dòng sông Bứa

Đứng sừng sững bên dòng sông Bứa (đoạn qua Khu 4, xã Quang Húc, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ), cây thị cổ được công nhận cây di sản Việt Nam có tuổi đời ước tính hơn 1.100 năm vẫn xanh tươi, tỏa bóng mát. Hàng năm, “cụ” thị vẫn ra hoa trái lan tỏa mùi hương nồng nàn.